ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Đề xuất Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng phát triển bền vững

Ngày đăng: 16 | 05 | 2023

Trên thế giới, bền vững môi trường ngày càng được chú trọng trong chính sách phát triển của các nước. Các mục tiêu bền vững chỉ đạt được khi có những chính sách phát triển phù hợp và việc thực hiện hiệu quả các chính sách quản lý môi trường và tài nguyên. Tuy nhiên công tác hoạch định chính sách, đánh giá hiệu quả thực hiện các chính sách này trong phạm vi một quốc gia, hay so sánh trong khu vực, hay hẹp hơn như so sánh giữa các vùng, tỉnh trong một quốc gia, đòi hỏi cách thức tiếp cận khoa học, có căn cứ, là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách, các cấp quản lý gặp khó khăn.

    Các phương pháp xây dựng các hệ thống chỉ thị, hay chỉ số tổng hợp đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới nhằm phục vụ các yêu cầu đánh giá như vậy. Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động môi trường có thể kể tới như Đánh giá hoạt động môi trường theo phương pháp P-S-R (Áp lực - Hiện trạng - Ứng phó), sau đó được phát triển bổ sung thành D-P-S-I-R (Động lực - Áp lực - Hiện trạng - Tác động - Đáp ứng); Chỉ số bền vững môi trường - ESI; Chỉ số đánh giá hoạt động môi trường - EPI.

    Thời gian qua, cùng với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế, xã hội. Đời sống của nhân dân đã được cải thiện, đất nước đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, cùng với những tác động bởi sự nóng lên toàn cầu, nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc về ô nhiễm, suy thoái môi trường do quá trình phát triển gây nên. Việc quản lý đối với quỹ đất ven biển trong thời gian qua có nhiều bất cập, hạn chế như: Quy hoạch xây dựng và công tác quản lý đầu tư xây dựng theo quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức cho nên chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển; nhiều dự án tập trung ven biển dẫn đến thiếu không gian, cự ly cần thiết để tạo không gian công cộng dành cho cộng đồng; tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái trầm trọng… Bởi vậy, cần nâng cao việc sử dụng đất ven biển một cách hiệu quả, đồng thời thực hiện các mục tiêu về môi trường, thông qua việc xây dựng bộ chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng phát triển bền vững (PTBV).

    Hiện nay tại Việt Nam đang có nhiều Bộ chỉ tiêu liên quan tới đánh giá hiệu quả môi trường, ở cấp quốc gia và cấp ngành, đã có một số chỉ tiêu liên quan tới đánh giá môi trường đất. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một Bộ chỉ tiêu nào về đánh giá hiệu quả môi trường từ việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững. Từ thực tế đó, việc xác định nguyên tắc và căn cứ lựa chọn Bộ chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV cần đáp ứng được các nguyên tắc khoa học, yêu cầu thực tiễn và quy định pháp lý đặt ra.

1. Khái quát các bộ chỉ tiêu đánh giá về môi trường và PTBV trên thế giới và tại Việt Nam

    Bộ chỉ thị của Uỷ ban phát triển bền vững Liên hiệp quốc (LHQ)

    Ủy ban PTBV của LHQ (CSD) được ra đời năm 1992 do sự ủng hộ của Hội đồng kinh tế và xã hội thuộc LHQ và là kết quả trực tiếp của Hội nghị LHQ về môi trường và phát triển. Một yếu tố quan trọng trong hoạt động của Uỷ ban này là tập trung vào việc xây dựng và thử nghiệm một bộ gồm 58 Chỉ thị [1] (lúc đầu là 134). Bộ Chỉ thị này đã bao quát các khía cạnh xã hội, môi trường, kinh tế và thể chế của PTBV. Đây là Bộ chỉ thị được nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam lựa chọn để xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá PTBV cho quốc gia mình.

    Bộ chỉ thị của Nhóm tư vấn về chỉ tiêu PTBV (CGSDI)

    CGSDI là nhóm quốc tế gồm 12 chuyên gia, ra đời năm 1996, với sự tài trợ của Quỹ Wallace toàn cầu, nhằm hài hòa những hoạt động quốc tế về lập chỉ thị và chỉ số phát triển bền vững. Họ đã biên soạn ra một bộ 46 Chỉ thị về môi trường, kinh tế - xã hội và thể chế cho hơn 100 quốc gia [2]. Song song với đó, CGSDI đã xây dựng một phần mềm trọn gói cho phép người sử dụng lựa chọn các phương pháp khác nhau để tính toán các điểm tổng thể từ các chỉ thị riêng biệt tới phân tích đồ hoạ các kết quả tổng hợp.

    Bộ Chỉ số thịnh vượng của IUCN

    Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đã tài trợ cho hoạt động Ðánh giá sự thịnh vượng. Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trong cuốn Sự thịnh vượng của các dân tộc: Một chỉ số về chất lượng cuộc sống và môi trường của từng quốc gia [3]. Chỉ số thịnh vượng là một tập hợp gồm 88 Chỉ thị, đã được dùng đánh giá cho 180 quốc gia. Các chỉ thị được kết hợp lại thành 2 nhóm là các chỉ thị thịnh vượng nhân văn và phúc lợi sinh thái. Chỉ số về thịnh vượng nhân văn bao gồm một tập hợp các độ đo về sức khỏe và dân số, sự giàu có, kiến thức và văn hóa, cộng đồng và sự bình đẳng. Chỉ số phúc lợi sinh thái gồm một tập hợp các độ đo về đất đai, nguồn nước, không khí, đa dạng sinh học và việc sử dụng nguồn lợi sinh vật. Việt Nam hiện có một số công trình nghiên cứu có sử dụng các nguyên tắc của thước đo này, nhưng kết quả còn rất khiêm tốn và hạn chế để có thể coi là một công cụ đánh giá phát triển bền vững toàn diện.

    Bộ Chỉ số hiệu quả môi trường EPI

    Năm 2006, nhóm nghiên cứu của Đại học Yale và Đại học Columbia ở Hoa Kỳ đã chuyển sang nghiên cứu Chỉ số đánh giá hoạt động môi trường (EPI), tập trung vào các vấn đề môi trường hẹp hơn mà Chính phủ các nước phải chịu trách nhiệm [4]. EPI theo dõi các xu hướng hiệu quả môi trường dựa trên phân tích những dữ liệu đáng tin cậy nhất từ các chính sách trọng điểm. Ngoài ra, qua các số liệu minh bạch và dễ hình dung, EPI giúp các nhà lãnh đạo nắm rõ những điểm mạnh và điểm yếu của hoạt động môi trường của quốc gia so với các nước khác. Phân tích EPI vì vậy tập trung vào hai mục tiêu: 1) giảm áp lực của môi trường lên sức khỏe con người; tăng cường hệ sinh thái và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên.

    Chỉ số được xây dựng như một chỉ số tổng hợp, dựa trên 16 chỉ số tổng hợp thành phần với quyền số khác nhau. Các chỉ số tổng hợp cùng giá trị quyền số dựa trên các mục tiêu xác định, theo khung cấu trúc Động lực - Áp lực - Thực trạng - Tác động - Hưởng ứng (DPSIR) đưa ra bởi các đánh giá khoa học và tổng quan về lĩnh vực môi trường cũng như ý kiến tư vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học môi trường, cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ, các trung tâm nghiên cứu và học thuật về môi trường.

    Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và ngành tại Việt Nam

    Hiện nay có nhiều Bộ chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả môi trường và PTBV đang được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong đó, về hệ thống chỉ tiêu quốc gia theo Nghị định số 97/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định về nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia. Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia gồm 20 nhóm chỉ tiêu, trong mỗi nhóm chỉ tiêu thống kê nêu trên gồm một số chỉ tiêu thống kê. Nội dung mỗi chỉ tiêu thống kê gồm: Khái niệm, phương pháp tính; phân tổ chủ yếu; kỳ công bố; nguồn số liệu; cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp.

    Hệ thống chỉ tiêu theo ngành có: Thông tư số 73/2017/TT-BTMMT ngày 29/12/2017 về ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành TN&MT; Thông tư số 40/2016/TT-BCT về Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành công thương do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành; Quyết định số 3201/QĐ-BNN-KH năm 2010 về Hệ thống chỉ tiêu thống kê và chế độ báo cáo thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; Thông tư số 05/2012/TT-BXD Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Xây dựng; Thông tư 41/2014/TT-BGTVT Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Giao thông vận tải…

    Nhìn chung, đã có khá nhiều các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả môi trường theo các lĩnh vực. Tuy nhiên, về Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường từ sử dụng đất ven biển hiện chưa có một bộ chỉ tiêu nào chính thức, mà mới chỉ có các chỉ tiêu hoặc hướng dẫn về đánh giá môi trường từ sử dụng đất nói chung đã được cơ quan quản lý ban hành như: Quyết định số 2782/2019/QĐ-BTNMT ngày 31/10/2019 về ban hành Bộ chỉ số đánh giá kết quả BVMT của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thông tư số 23/2010/TT-BTMMT ngày 26/10/2010 về ban hành Quy định điều tra khảo sát, đánh giá hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái cỏ biển và đất ngập nước vùng ven biển và hải đảo; Thông tư số 14/2012/TT-BTMMT ngày 26/11/2012 về ban hành Quy định kỹ thuật điều tra thoái hóa đất; Thông tư số 28/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 quy định về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; Thông tư số 35/2014/TT-BTMMT ngày 30/06/2014 về ban hành Quy định việc điều tra, đánh giá đất đai; Thông tư số 60/2015/TT-BTMMT ngày 15/12/2015 về ban hành Quy định về kĩ thuật điều tra, đánh giá đất đai; Thông tư số 73/2017/TT-BTMMT ngày 29/12/2017 về ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành TN&MT.

    Các công trình nghiên cứu về đánh giá hiệu quả môi trường trong sử dụng đất thì sử dụng một số tiêu chí khác nhau, đa phần là các tiêu chí liên quan tới tỷ lệ sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ tồn dư hóa chất trong đất, suy giảm đa dạng sinh học, suy thoái đất (Đỗ Văn Nhạ & Nguyễn Thị Phong Thu, 2016 [5]; Nguyễn Văn Bình, 2016 [6]; Hoàng Thị Thái Hòa & Lý Thị Duyên, 2018 [7];…). Các nghiên cứu này bên cạnh việc không thống nhất về các tiêu chí đánh giá thì các tiêu chí đưa ra cũng khá ít, và hướng theo phạm vi khu vực nghiên cứu cụ thể. Bởi vậy, cần phải có một bộ chỉ tiêu toàn diện và có tính bao quát hơn trong việc đánh giá hiệu quả môi trường từ sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV.

2. Đề xuất Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường từ sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV      

Quy trình xây dựng Bộ Chỉ tiêu

    Từ tình hình thực tiễn như đã phân tích, nhóm tác giả sau khi tham khảo, phân tích về các bộ tiêu chí liên quan hiện có, cùng với việc đối chiếu với các đặc thù của sử dụng đất ven biển và các nguyên tắc sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV, đã xây dựng quy trình xác định các chỉ tiêu cụ thể trong Bộ chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng PTBV. Sau đây là quy trình xây dựng Bộ chỉ tiêu:

    Bước 1: Dựa trên cơ sở khoa học, kinh nghiệm quốc tế, cơ sở pháp lý về các nội dung quản lý nhà nước về sử dụng đất ven biển và hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành đưa ra danh sách chỉ tiêu mang tính phù hợp nhất đối với các địa phương ven biển.

    Bước 2: Tham vấn địa phương về nội dung chỉ tiêu. Đối tượng tham vấn là các cán bộ cơ quan quản lý nhà nước tại các địa phương. Đơn vị tham gia tham vấn gồm: Nhóm cơ quan quản lý nhà nước (Sở, ban, ngành liên quan); Nhóm đơn vị nghiên cứu (Viện nghiên cứu, trường đại học). Sau khi tham vấn địa phương, kết quả đạt được là Bộ chỉ tiêu được rút gọn cho cấp địa phương, có đánh giá sơ bộ về tính khả thi.

    Bước 3: Tham vấn chuyên gia về nội dung của các chỉ tiêu được xác định. Đối tượng tham vấn là các chuyên gia có kinh nghiệm trong xây dựng chỉ số và nội dung tham vấn. Kết quả đạt được là danh sách chỉ tiêu, có đánh giá tính phù hợp và khả thi về dữ liệu.

    Bước 4: Nhóm nghiên cứu tổng hợp, đánh giá dựa trên kết quả tham vấn, đưa ra bộ chỉ tiêu phù hợp nhất.

Các chỉ tiêu cụ thể

    Theo đó, các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững gồm có các chỉ tiêu sau:

Chỉ tiêu 1: Diện tích đất bị thoái hóa

    Đất bị thoái hóa là đất bị thay đổi những đặc tính và tính chất vốn có ban đầu (theo chiều hướng xấu) do sự tác động của điều kiện tự nhiên và con người. Thoái hóa đất có khả năng xảy ra trên tất cả các loại đất: Đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất bằng chưa sử dụng, đất đồi núi chưa sử dụng. Đất bị thoái hóa gồm các loại hình sau: Đất bị khô hạn, hoang mạc hóa; đất bị hoang hóa; sạt lở đất; kết von, đá ong hóa; đất bị chai cứng, chặt bí; ô nhiễm đất; xói mòn đất; đất bị ngập úng; đất bị mặn hóa; đất bị phèn hóa. Tổng hợp phân hạng mức độ thoái hóa đất (đất bị thoái hóa nặng, thoái hóa trung bình, thoái hóa nhẹ) theo quy định kỹ thuật về Điều tra thoái hóa đất của Bộ TN&MT.

Công thức tính:

16 5 23 1

Nguồn số liệu:

    - Chế độ báo cáo thống kê ngành tài nguyên và môi trường;

    - Điều tra, đánh giá thoái hóa đất của các vùng kinh tế - xã hội; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển.

Chỉ tiêu 2: Diện tích đất bị ô nhiễm

    Ô nhiễm đất là sự gia tăng hàm lượng của một số chất, hợp chất so với tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam cho phép, làm nhiễm bẩn đất. Phân cấp đánh giá mức độ ô nhiễm: Không ô nhiễm: Chỉ tiêu được đánh giá có giá trị nhỏ hơn 70% giá trị giới hạn cho phép. Cận ô nhiễm: Chỉ tiêu được đánh giá có giá trị từ 70% đến cận 100% giá trị giới hạn cho phép. Ô nhiễm: Chỉ tiêu được đánh giá có giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị giới hạn cho phép. Nội dung, phương pháp điều tra ô nhiễm đất thực hiện theo quy định tại Thông tư số 60/2015/TT-BTNMT ngày 15/12/2015 của Bộ trưởng Bộ TN&MT quy định về kỹ thuật điều tra, đánh giá đất đai.

    Nguồn số liệu:

 - Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT.

 - Điều tra, đánh giá ô nhiễm môi trường đất vùng; tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương ven biển.

Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ số khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo

    Khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu là khu vực được phát hiện có một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm tồn lưu vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường, ảnh hưởng xấu đến con người, môi trường và hệ sinh thái. Khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xác định trong quy định này bao gồm các khu vực đất bị ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật, chất độc hóa học do chiến tranh; bãi chôn lấp không hợp vệ sinh đã dừng hoạt động hoặc đóng cửa. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa các khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo trên tổng số các khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được phát hiện trên địa bàn.

     Công thức tính:  

16 5 23 2

 

 Nguồn số liệu:

    - Chế độ báo cáo thống kê ngành tài nguyên và môi trường.

    - Điều tra, đánh giá ô nhiễm môi trường đất vùng; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển.

    Chỉ tiêu 4: Hàm lượng các chất trong trầm tích đáy tại khu vực cửa sông và ven biển

    Môi trường trầm tích là nơi được sử dụng chủ yếu cho hoạt động nuôi trồng thủy sản và cũng là nơi tồn tại của hệ sinh thái san hô, cỏ biển và rừng ngập mặn. Các chất đặc trưng trong trầm tích tại một số cửa sông là những chất có mặt trong môi trường trầm tích dưới đáy vùng cửa sông, ven biển, khi vượt quá ngưỡng cho phép sẽ gây ô nhiễm trầm tích, tác động xấu tới các loài sinh vật và hệ sinh thái trong môi trường trầm tích. Các chất trong môi trường trầm tích thường bao gồm nhóm thông số trong môi trường kim loại nặng, dầu mỡ khoáng và chất hữu cơ khó phân hủy. Phương pháp lấy mẫu để quan trắc chất lượng trầm tích (cho biết hàm lượng một số chất độc hại trong trầm tích) áp dụng theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng. Phương pháp phân tích xác định các thông số chất lượng trầm tích thực hiện theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn quốc gia hoặc phương pháp phân tích tương ứng của các tổ chức quốc tế.

    Nguồn số liệu:

    - Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT;

    - Dữ liệu quan trắc tại các trạm quan trắc của các Bộ, ngành và địa phương.

    Chỉ tiêu 5: Hàm lượng các chất trong môi trường nước biển tại khu vực cửa sông, ven biển và biển xa bờ

    Hàm lượng các chất trong nước biển là các thông số kỹ thuật đo được của các chất tồn tại trong môi trường nước biển, nếu vượt quá ngưỡng QCVN 10-MT:2015/BTNMT, các chất này có khả năng gây ô nhiễm môi trường nước biển, tác động xấu tới các loài sinh vật và hệ sinh thái môi trường biển. Phương pháp sử dụng để xác định hàm lượng một số chất trong nước biển là phương pháp lấy mẫu nước tại các vị trí quan trắc, sau đó đưa về phân tích kết quả tại phòng thí nghiệm. Phương pháp lấy mẫu quan trắc chất lượng nước biển được áp dụng theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng. Phương pháp phân tích xác định các thông số trong nước biển thực hiện theo hướng dẫn của các tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn phân tích tương ứng của các tổ chức quốc tế.

    Nguồn số liệu:

    - Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT;

    - Dữ liệu quan trắc tại các trạm quan trắc của các Bộ, ngành và địa phương ven biển.

Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ diện tích rừng trồng mới

    Chỉ tiêu phản ánh phản ánh mật độ diện tích rừng trồng mới tập trung trên diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp, thể hiện nỗ lực bảo vệ và phát triển rừng trong quy hoạch sử dụng đất theo hướng bền vững. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ lệ diện tích rừng trồng mới tập trung trên diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp là tỷ lệ phần trăm diện tích rừng được trồng mới tập trung trên tổng diện tích đất được quy hoạch cho lâm nghiệp của địa phương.

      Công thức tính:

16 5 23 3

Nguồn số liệu:

    - Niên giám thống kê các địa phương ven biển.

    - Chế độ báo cáo thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Chỉ tiêu 7: Diện tích đất sản xuất áp dụng mô hình canh tác nông nghiệp bền vững

    Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường gây ra do việc lạm dụng các hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón trong canh tác nông nghiệp đang là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến vấn đề ô nhiễm nước mặt, nước ngầm và suy thoái đất. Chỉ tiêu này nhằm phản ánh vấn đề quản lý BVMT trong ngành nông nghiệp, chú trọng vấn đề quản lý sử dụng hóa chất nông nghiệp dựa trên các mô hình canh tác bền vững. Chỉ tiêu cần phản ánh các mô hình sản xuất bền vững trong canh tác, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, mô hình canh tác nông nghiệp bền vững có các tiêu chuẩn và điều kiện xác nhận như IPM, VietGAP…

      Công thức tính:

16 5 23 4

Nguồn số liệu:

- Niên giám thống kê các địa phương ven biển.

- Chế độ báo cáo thống kê ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Chỉ tiêu 8: Diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên

    Khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm: Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài - sinh cảnh, Khu bảo vệ cảnh quan. Căn cứ vào mức độ đa dạng sinh học, quy mô diện tích, khu bảo tồn thiên nhiên được phân thành cấp quốc gia và cấp tỉnh để có chính sách quản lý, đầu tư phù hợp. Nội dung chỉ tiêu thực hiện theo quy định tại Nghị định số 97/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê. Tỷ lệ diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên được tính bằng tỷ lệ phần trăm của tổng diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm cấp quốc gia và cấp tỉnh đã được công nhận trên tổng diện tích tự nhiên.

    Công thức tính:

16 5 23 5

Nguồn số liệu: 

    Chế độ báo cáo thống kê ngành TN&MT.

3. Kết luận

    Hiện nay, tại Việt Nam đang có nhiều Bộ chỉ tiêu liên quan tới đánh giá hiệu quả môi trường, ở cấp quốc gia và cấp ngành, trong đó đã có một số chỉ tiêu liên quan tới đánh giá môi trường đất. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một bộ chỉ tiêu nào về đánh giá hiệu quả môi trường từ việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững.

    Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, nhóm tác giả đã xác định và xây dựng Bộ chỉ tiêu về đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng bền vững. Bộ chỉ tiêu này bao gồm 8 chỉ tiêu: Chỉ tiêu 1: Diện tích đất bị thoái hóa; Chỉ tiêu 2: Diện tích đất bị ô nhiễm; Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ số khu vực đất bị ô nhiễm tồn lưu được xử lý, cải tạo; Chỉ tiêu 4: Hàm lượng các chất trong trầm tích đáy tại khu vực cửa sông và ven biển; Chỉ tiêu 5: Hàm lượng các chất trong môi trường nước biển tại khu vực cửa sông, ven biển và biển xa bờ; Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ diện tích rừng trồng mới; Chỉ tiêu 7: Diện tích đất sản xuất áp dụng mô hình canh tác nông nghiệp bền vững; Chỉ tiêu 8: Diện tích các Khu bảo tồn thiên nhiên.

    Đây là các chỉ tiêu đã được lựa chọn và phân tích kỹ lưỡng và được phát triển và chọn lọc từ hệ thống chỉ tiêu quốc gia, hệ thống chỉ tiêu của ngành TN&MT và từ các ngành liên quan, cùng với việc xem xét sự phù hợp với đặc thù sử dụng đất ven biển. Ngoài ra, sự sẵn có và khả năng thu thập số liệu cũng là các tiêu chí được xem xét khi lựa chọn các chỉ tiêu này.

 

ThS. Trịnh Thị Hải Yến

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 12/2022)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. UN (2007). Indicator of sustainable development: Guidline and methodologies - Third Edition, 2007.

2. Consultative Group on Sustainable Development Indicators (2006). Dashboard of Sustainability.

3. IUCN (2001). The wellbeing of nations : a country-by-country index of quality of life and the environment.

4. Esty, Daniel C., Marc A. Levy, Tanja Srebotnjak, Alexander de Sherbinin, Christine H. Kim, and Bridget Anderson (2006). Pilot 2006 Environmental Performance Index. New Haven: Yale Center for Environmental Law & Policy.

5. Đỗ Văn Nhạ, Nguyễn Thị Phong Thu (2016). Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Tạp chí KH Nông nghiệp Việt Nam 2016, tập 14, số 12: 1934-1944.

6. Nguyễn Văn Bình. (2016). Đánh giá thực trạng và đề xuất hướng sử dụng đất nông nghiệp bền vững tại thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại học Huế: Luận án Tiến sĩ.

7. Hoàng Thị Thái Hòa, Lý Thị Duyên (2018). Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp, Tập 2(1) - 2018.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NỘI DUNG KHÁC

Thực trạng và chính sách phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực rác thải điện tử

19-5-2023

Sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đi cùng với sự đổi mới sáng tạo công nghệ đã khiến việc sản xuất các thiết bị điện, điện tử phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội giúp cho đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tầng lớp trung lưu, thượng lưu cũng gia tăng dẫn đến nhu cầu thay đổi các sản phẩm điện, điện tử ngày càng lớn. Điều này dẫn đến tuổi đời ngày càng ngắn của các sản phẩm điện, điện tử, có nghĩa là có nhiều rác thải điện tử được sinh ra hơn trong nền văn hóa “nâng cấp và thải bỏ” ngày nay. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi mà lượng rác thải điện tử trong nước ngày càng tăng nhanh tạo ra những áp lực đối với công tác xử lý loại chất thải đặc thù này. Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra những quy định về phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH), về trách nhiệm tái chế, xử lý các sản phẩm thải bỏ trong đó có rác thải điện tử. Bài viết sau đây tổng quan thực trạng về rác thải điện tử ở Việt Nam, đánh giá các khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý từ đó đưa ra các đề xuất để thúc đẩy phát triển mô hình KTTH trong lĩnh vực rác thải điện tử.

Huy động nguồn lực thực hiện NDC: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

19-5-2023

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trở thành thách thức chung của toàn nhân loại. Nỗ lực để hạn chế các nguyên nhân gây ra BĐKH là trách nhiệm của mỗi quốc gia, lĩnh vực và cá nhân. Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực để chủ động ứng phó với BĐKH thông qua việc triển khai đồng thời hoạt động thích ứng, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK). Quyết tâm, cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế chống lại BĐKH được thể hiện thông qua Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2020 và đệ trình Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC).

Thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào lĩnh vực xử lý nước thải ở Việt Nam

19-5-2023

Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Với những thay đổi thể chế, chính sách đã tạo động lực cho khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII năm 2017 đã chỉ rõ quan điểm “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta".

Tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển bền vững về môi trường ở Việt Nam

22-5-2023

Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (PTBV), được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, kêu gọi sự chung tay hành động xóa đói giảm nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo đến năm 2030 tất cả cư dân toàn cầu đều được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Chương trình đưa ra 17 mục tiêu PTBV (SDG), 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai.

Một số cơ sở lý luận về thiết lập tài khoản đại dương

23-5-2023

Đại dương là nguồn sinh kế quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), góp phần điều hòa khí hậu và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG14 (Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển cho phát triển bền vững) của các nước trên thế giới.

Vai trò, xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn để thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn và khuyến nghị cho Việt Nam

24-5-2023

 Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là cách tiếp cận chính sách giúp các nhà hoạch định, nhà quản lý nhìn nhận sự vận hành của nền kinh tế và tìm ra giải pháp hoàn thiện thúc đẩy xã hội áp dụng KTTH. Có nhiều công cụ chính sách khác nhau đang được bàn luận và áp dụng tại các quốc gia trên thế giới như mua sắm công xanh, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility-EPRs), tài chính xanh, nhãn sinh thái, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ về thuế/phí… Một trong những công cụ có vai trò quan trọng để thúc đẩy áp dụng KTTH là “tiêu chuẩn, quy chuẩn”. Bài viết phân tích vai trò, ý nghĩa trong tiếp cận về tiêu chuẩn, quy chuẩn, xu hướng phát triển tiêu chuẩn để thúc đẩy áp dụng KTTH và khuyến nghị cho Việt Nam.

Một cách tiếp cận đánh giá kết quả thực hiện chiến lược trong khu vực công tại Việt Nam

24-5-2023

 Hoạt động đánh giá chiến lược sau khi ban hành tại Việt Nam dần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, hoạt động này đa phần tập trung vào sơ kết hoặc tổng kết kết quả khi chuẩn bị xây dựng chiến lược cho giai đoạn mới. Hoạt động đánh giá kết quả chiến lược cũng chưa có hướng dẫn thống nhất nào về phương pháp, công cụ cũng như quy trình đánh giá.

Đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước ở Việt Nam

25-5-2023

Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước (ĐNN), chiếm 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái (HST) ĐNN tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, các khu rừng ngập mặn, các vùng ĐNN ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học (ĐDSH). Tuy nhiên, chất lượng ĐDSH các HST ĐNN của nước ta đang đối mặt với nguy cơ suy thoái ngày một nghiêm trọng, đặc biệt là các HST vùng triều, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cùng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm đang bị giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và quy mô diện tích phân bố. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về việc đánh giá suy thoái HST ĐNN, từ đó đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái HST ĐNN có thể áp dụng tại Việt Nam.

Đánh giá tổn thất và thiệt hại liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng - kinh nghiệm một số nước và hướng áp dụng cho Việt Nam

29-5-2023

 “Tổn thất và thiệt hại” là một chủ đề mới nổi trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu (BĐKH), trong các nghiên cứu, chính sách thực hiện hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, kết nối các lĩnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai. Đánh giá tổn thất và thiệt hại bao gồm phân tích, lượng giá các tổn thất đã xảy ra trong quá khứ hoặc dự báo, ước tính các thiệt hại liên quan đến biến đổi xảy ra trong tương lai. Ngoài việc đánh giá định lượng các tổn thất và thiệt hại (TT&TH), có thể thực hiện đánh giá định tính dựa vào cộng đồng. Bài viết giới thiệu phương pháp này từ thực tiễn áp dụng một số nước và đề xuất hướng áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề cần cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái rừng

30-5-2023

Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm.

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

31-5-2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.