ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào lĩnh vực xử lý nước thải ở Việt Nam

Ngày đăng: 19 | 05 | 2023

Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Với những thay đổi thể chế, chính sách đã tạo động lực cho khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII năm 2017 đã chỉ rõ quan điểm “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta".

    Qua 4 năm thực hiện, quan điểm này đã từng bước đi vào cuộc sống và bước đầu phát huy tác dụng thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh hơn và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, nhất là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện an sinh xã hội, đồng thời góp phần hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, các vấn đề môi trường ngày càng trở nên khó kiểm soát và ngân sách của quốc gia còn nhiều hạn chế và không đáp ứng được nhu cầu, kinh tế tư nhân được coi là một động lực quan trọng cho công tác BVMT nói chung và trong công tác xử lý nước thải (XLNT) nói riêng. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức hợp tác phát triển Đức (GIZ) thực hiện nghiên cứu thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào XLNT khu công nghiệp và đô thị của quốc tế và Việt Nam”, thời gian thực hiện từ năm 2020 - 2022. Nhóm nghiên cứu đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế, từ đó phân tích, đánh giá thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân tham gia XLNT ở Việt Nam.  

    1. Thu hút đầu tư khu vực kinh tế tư nhân vào XLNT ở một số  quốc gia

    Thu hút sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân vào BVMT nói chung và XLNT nói riêng là vấn đề đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và khuyến khích. Các quốc gia khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực hạ tầng cấp nước và XLNT với nhiều hình thức, bao gồm tư nhân hóa, các dự án xanh, nhượng quyền, cho thuê, hợp đồng vận hành và quản lý...

Theo thống kê của WB vào năm 2017 (Bank, 2017) về khối lượng đầu tư của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng liên quan tới lĩnh vực cung cấp và xử lý nước, khu vực Đông Á Thái Bình Dương (EAP) chiếm 83% khối lượng đầu tư. Trong số 25 dự án lớn có sự tham gia của khu tư nhân tại EAP, thì Trung Quốc có 24 dự án, dự án còn lại có giá trị 157 triệu USD đầu tư vào Nhà máy XLNT ở Inđônêxia. Tại khu vực Mỹ Latinh và Caribe (LAC), điển hình như Brazil, khu vực tư nhân đã đầu tư 219 triệu USD, với hai dự án lớn liên quan tới xử lý và tái chế nước thải. Khu vực Châu Âu và Trung Á (ECA), cụ thể như Georgia đã thu hút 25 triệu USD từ doanh nghiệp cho dự án Nhà máy XLNT. Tại khu vực Nam Á, Ấn Độ được khu vực tư nhân đầu tư 25 triệu USD cho dự án xử lý nước thải. Bên cạnh đó khu vực Châu Phi Hạ Sahara (SAR) cũng đã thu hút được 60 triệu USD từ khu vực tư nhân. Xu thế đầu tư của khu vực tư nhân theo từng khu vực trên thế giới vào lĩnh vực cung cấp và XLNT được thể hiện ở Hình 1.

Hình 1. Xu thế đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vưc cung cấp và XLNT trên thế giới trong giai đoạn 2012-2017

Nguồn: Cơ sở dữ liệu của Ngân hàng thế giới, 2018

    Brazil, Trung Quốc và Mêhicô là ba quốc gia thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân nhiều nhất trong lĩnh vực cung cấp và xử lý nước trong giai đoạn 2007-2017 (Bảng 1).

    Bảng 1. Các quốc gia thu hút được đầu tư từ khu vực tư nhân nhiều nhất trong lĩnh vực cung cấp và XLNT trong giai đoạn 2007-2017

19 5 23 2

Nguồn: Cơ sở dữ liệu của ngân hàng thế giới, 2018

    Brazil là quốc gia có sự không đồng đều về khả năng tiếp cận với nước sạch và XLNT giữa các khu vực trong quốc gia, cũng như giữa khu vực nông thôn và thành thị. Kế hoạch Nước và vệ sinh quốc gia (PlanSab) đã đặt mục tiêu tới năm 2033 là cung cấp nước sạch tới 99% người dân và 92% người dân tiếp cận với hệ thống vệ sinh và XLNT an toàn. Từ mục tiêu chính sách này, Chính phủ Brazil đầu tư cho các chủ thể cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực cung cấp và XLNT. Cùng với sự trợ giúp về cơ sở hạ tầng trong Chương trình Thúc đẩy Tăng trưởng (PAC) và hỗ trợ tài chính dài hạn bởi Ngân hàng Phát triển Brazil (BNDES), Brazil đã huy động ngày càng nhiều sự tham gia từ khu vực tư nhân dưới dạng mô hình PPP.

    Trung Quốc đã tiến hành chiến dịch nhằm hạn chế ô nhiễm nước, với việc ban hành Luật BVMT mới, cùng với đó là chính sách thúc đẩy thuê bên thứ ba để gia công và xử lý chất thải công nghiệp. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đưa ra quy định nghiêm ngặt hơn trong Kế hoạch Hành động phòng chống và kiểm soát ô nhiễm nước và tiêu chuẩn xả nước thải mới. Những chính sách này, đã tạo ra nhu cầu về các giải pháp công nghệ, và thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường XLNT. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng cam kết tăng đầu tư vào các nhà máy XLNT thêm 35% trước năm 2020. Việc tăng cường XLNT là một trong những mục tiêu môi trường quan trọng của Trung Quốc, quốc gia này đã tạo ra thị trường XLNT lớn nhất trên thế giới, nơi các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư kỹ thuật và chuyên môn dưới sự hỗ trợ tốt nhất từ Chính phủ…

    Mêhicô, Chính phủ đã sử dụng hai công cụ chính để chuyển nguồn tài chính đến cơ sở hạ tầng liên quan tới cung cấp và xử lý nước, bao gồm: 1) ngân hàng phát triển Mêhicô chuyên về cơ sở hạ tầng (Banobras Banco Nacional de Obrasy Servicios Públicos); 2) cơ quan tín thác của Chính phủ (Fonadin) với sứ mệnh làm cho các dự án về cơ sở hạ tầng có thể tiếp cận khoản vay của ngân hàng. Fonadin có những hoạt động cụ thể như: hỗ trợ các dự án hợp tác công tư vào cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho dòng vốn của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng, nhận rủi ro khi thị trường chưa sẵn sàng đón nhận, tăng lợi ích cho nhà đầu tư tư nhân trong các dự án có lợi suất thông qua các tác động xã hội, cung cấp nguồn tài chính dài hạn với lãi suất cạnh tranh. Một trong những chương trình do Fonadin điều hành là Chương trình hiện đại hóa khai thác và xử lý nước (PROMAGUA), trong đó mục tiêu của Chương trình là thu hút khu vực tư nhân vào các dự án cung cấp và xử lý nước. Những sáng kiến này rất hữu ích trong việc thu hút và huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân.

    Như vậy, có thể thấy, ở các quốc gia trên thế giới việc huy động tư nhân vào XLNT là giải pháp phù hợp, mang lại hiệu quả cao và giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

    2. Thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào XLNT ở Việt Nam

    Sau 30 năm đổi mới, đến nay, kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương diện, được tự do kinh doanh và đối xử bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và vùng, miền; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

    Không chỉ đóng góp vào quá trình phát triển của nền kinh tế, kinh tế tư nhân cũng là động lực quan trọng lĩnh vực BVMT. Để tăng cường nguồn lực cho BVMT, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đẩy mạnh xã hội hóa công tác BVMT nói chung và XLNT nói riêng  cụ thể như: Luật BVMT năm 2020, Điều 5, mục 6 bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân đóng góp cho hoạt động BVMT; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT; thúc đẩy sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 về thoát nước và XLNT, trong đó “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng một phần hoặc toàn bộ hệ thống thoát nước phù hợp với quy hoạch xây dựng, quy hoạch thoát nước được cấp có thẩm quyền phê duyệt”; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, đã quy định đối với lĩnh vực đầu tư vào hệ thống thu gom, XLNT, chất thải, các địa phương có thêm kênh thu hút vốn để tháo gỡ nút thắt trong các dự án đầu tư cơ sở XLNT; Nghị định số 154/2016/NĐ-CP ngày 16/11/2016 của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải; Ngày 18/6/2020 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) trong đó XLNT là một trong năm lĩnh vực thiết yếu áp dụng với những ưu đãi đầu tư cụ thể cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia…

    Nhờ những chính sách trên, những năm gần đây, việc đầu tư vào lĩnh vực thoát nước và XLNT được cải thiện đáng kể. Phần lớn các đô thị đều có hệ thống thoát nước chung cho cả nước mặt và nước thải với quy mô khác nhau, tuy nhiên còn thiếu hệ thống thu gom và các trạm XLNT tập trung2. Theo Báo cáo của Cục Hạ tầng kỹ thuật (Bộ Xây dựng), hiện tại cả nước có khoảng 43 Nhà máy XLNT tập trung với tổng công suất xử lý gần 1 triệu m3/ngày và mới chỉ đáp ứng khoảng 13% tổng lượng nước thải được thu gom và xử lý. Năm 2020 nước ta có thêm 50 nhà máy, nâng tỷ lệ thu gom và XLNT đạt khoảng 20%.  

    Sự tham gia của các tổ chức kinh tế vào hoạt động XLNT cũng đa dạng kể cả về số lượng các doanh nghiệp và quy mô các tổ chức. Năm 2016 có 763 doanh nghiệp thành lập mới; năm 2017 có 1.062 doanh nghiệp; năm 2018 có 1.122 doanh nghiệp, nếu tính chung cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm thì năm 2018 các doanh nghiệp bổ sung cho nền kinh tế gần 3,9 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, về cơ bản mới chỉ xử lý được một phần rất nhỏ, chủ yếu là hoạt động thu gom và xử lý sơ bộ so với nhu cầu của ngành, nhiều dịch vụ đòi hỏi công nghệ cao thì các công ty môi trường hầu như chưa đáp ứng được. Cho đến nay, năng lực xử lý cung ứng dịch vụ môi trường mới đáp ứng được 2-3% nhu cầu XLNT đô thị, 15% nhu cầu xử lý chất thải rắn, khoảng 14% nhu cầu xử lý chất thải nguy hại; nhiều lĩnh vực như tái chế dầu thải, nhựa phế liệu, chất thải điện, điện tử chưa phát triển2. Theo dự báo của Bộ Xây dựng, thị trường XLNT của Việt Nam tới năm 2025 sẽ cần khoảng 10 tỷ USD, gồm 3,3 tỷ USD để cải thiện hệ thống xử lý nước hiện hữu và 6,9 tỷ USD để đầu tư thêm các nhà máy mới. Nhu cầu tài chính cho công tác BVMT trong hoạt động XLNT các khu đô thị, công nghiệp giai đoạn 2017-2025 khoảng 25.7 - 26.3 tỷ USD trong trường hợp giữ nguyên kế hoạch theo Quyết định 1930/QĐ-TTg phê duyệt định hướng phát triển thoát nước đô thị khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 và khoảng 19,0 - 19,6 tỷ USD trong trường hợp điều chỉnh kế hoạch theo Quyết định số 589/QĐ- TTg ngày 6/4/2016 về điều chỉnh định hướng phát triển thoát nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Do đó, nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực XLNT ở nước ta luôn cấp thiết hơn bao giờ hết.

    Hiện nay, sự tham gia của các thành phần kinh tế trong hoạt động XLNT chủ yếu vẫn phải dựa vào nguồn vốn ODA và ngân sách nhà nước tuy nhiên nguồn vốn này ngày càng hạn chế và không đáp ứng được nhu cầu. Trong khi khu vực kinh tế tư nhân chưa mặn mà với các dự án trong lĩnh vực này, chỉ có ít dự án đầu tư được triển khai theo hình thức BT, BOT như Dự án nhà máy XLNT lưu vực kênh Tham Lương - Bến Cát (TP. Hồ Chí Minh), Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy XLNT Yên Sở (Hà Nội)…

    Trong khi đó, tại nhiều địa phương trên cả nước, nhu cầu đầu tư vào các dự án XLNT rất lớn, đơn cử như ở Cần Thơ, ngoài dự án XLNT tập trung công suất 30.000 m3/ngày, đêm đang triển khai dưới sự tài trợ vốn của Ngân hàng tái thiết Đức, thì nhiều dự án XLNT tập trung và phi tập trung khác trên địa bàn thành phố vẫn chưa thu hút được vốn đầu tư. Cụ thể, các dự án xây dựng nhà máy XLNT tập trung tại quận Bình Thủy, Thốt Nốt, Ô Môn và Cái Răng đến nay vẫn chưa tìm được nguồn vốn lẫn nhà đầu tư. Trong khi đó, dự án xây dựng các trạm XLNT phi tập trung tại các điểm dân cư tập trung và làng nghề trên địa bàn thành phố cũng rơi vào tình cảnh tương tự, tức chưa có nguồn vốn lẫn nhà đầu tư.

    Tại TP. Hồ Chí Minh, tính đến hết năm 2020, tỷ lệ  XLNT đô thị của TP mới chỉ đạt 13,2% tổng lượng nước sinh hoạt. Trong đó, Nhà máy XLNT Bình Hưng (huyện Bình Chánh) công suất 141.000 m3/ngày; Nhà máy XLNT Bình Hưng Hòa (quận Bình Tân) công suất 46.000 m3/ngày; Nhà máy xử lý nước thải Tham Lương - Bến Cát (quận 12) công suất giai đoạn 1 là 131.000 m3/ngày. Nhằm nâng cao tỷ lệ và hướng tới 100% nước thải sinh hoạt được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường, từ nay đến năm 2025, TP.HCM sẽ kêu gọi đầu tư xây dựng tổng cộng 12 Nhà máy XLNT với công suất xử lý khoảng 3 triệu m3 nước thải/ngày…

    3. Một số nguyên nhân hạn chế sự tham gia của khu vực tư nhân trong hoạt động XLNT

    Nghiên cứu cho thấy, Việt Nam đã ban hành cơ chế, chính sách thu hút tư nhân đầu tư cho lĩnh vực XLNT. Tuy nhiên, cơ chế triển khai dịch vụ này vẫn chủ yếu được thực hiện theo hình thức xã hội hóa, còn tiềm ẩn nhiều thách thức. Trong khi, hiện nay, chưa có nhiều chính sách ưu đãi về tài chính và hoạt động để thu hút, khuyến khích khối tư nhân tham gia lĩnh vực thu gom và XLNT. Trong khi đó, Biểu phí chưa phù hợp, đơn giá nước sạch và XLNT còn thấp khiến cho khả năng thu hồi chi phí đầu tư xây dựng thấp, trong khi đó chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống XLNT yêu cầu kinh phí cao và liên tục. Do đó, cần có những chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, về đất, bù giá về vốn đầu tư cho các dự án. Hiện tại, mới chỉ có quy định thu phí BVMT 10% trên giá nước sạch, tuy nhiên khoản thu này vẫn chưa đủ để nhà đầu tư hoàn vốn đầu tư cho các dự án nhà máy XLNT.

    Mặt khác, các điều kiện, thủ tục ưu đãi chưa đồng bộ nên nhà đầu tư còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các cơ hội và tổ chức thực hiện dự án. Ngoài ra, một số địa phương chưa xây dựng cơ chế một đầu mối trong quá trình thẩm định dự án. Thiếu các cam kết, hỗ trợ cụ thể để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thông thoáng và an toàn cho nhà đầu tư…là các nguyên nhân chính hạn chế sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này.

    Tiếp đến xuất phát từ chính thói quen đầu tư và quy mô của các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, nhất là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xử lý nước thải. Tại Việt Nam, theo Thông tư số 16/2013/TT-BTC ban hành ngày 8/2/2013, khoảng 96% các doanh nghiệp tư nhân hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc điểm của các doanh nghiệp này là số vốn tương đối ít (dưới 100 tỷ đồng) nên thường phải ưu tiên các khoản mục đầu tư nhỏ, ngắn hạn, quay vòng vốn nhanh. Trong khi đó, đầu tư cho lĩnh vực XLNT cần vốn lớn và thời gian hoàn vốn lâu. Vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có xu hướng tránh né các khoản mục đầu tư này.

    4. Kết luận

     Trong bối cảnh nguồn vốn từ ngân sách (kể cả Trung ương và địa phương) cho lĩnh vực XLNT còn hạn chế như hiện nay, thì huy động nguồn vốn của khu vực kinh tế  tư nhân là rất cần thiết. Thời gian tới, để đẩy mạnh thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực XLNT, cần thực hiện các giải pháp tổng thể như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực môi trường nhằm từng bước tạo dựng thị trường dịch vụ môi trường đầy đủ theo cơ chế thị trường; nghiên cứu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng cắt giảm thủ tục hành chính, giảm giấy phép con và hướng tới hỗ trợ nhà đầu tư thay vì chính sách ưu đãi thuế như hiện nay; công khai minh bạch trong cơ chế giá, thông tin, quy hoạch dịch vụ môi trường; xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư riêng cho XLNT.

Nguyễn Thị Thanh Huyền, Lại Văn Mạnh, Nguyễn Trọng Hạnh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

 

    Tài liệu tham khảo

    ​1. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83; ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

2. Báo cáo đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, 2013;

3. Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2016.

 

 

NỘI DUNG KHÁC

Tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển bền vững về môi trường ở Việt Nam

22-5-2023

Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (PTBV), được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, kêu gọi sự chung tay hành động xóa đói giảm nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo đến năm 2030 tất cả cư dân toàn cầu đều được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Chương trình đưa ra 17 mục tiêu PTBV (SDG), 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai.

Một số cơ sở lý luận về thiết lập tài khoản đại dương

23-5-2023

Đại dương là nguồn sinh kế quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), góp phần điều hòa khí hậu và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG14 (Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển cho phát triển bền vững) của các nước trên thế giới.

Vai trò, xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn để thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn và khuyến nghị cho Việt Nam

24-5-2023

 Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là cách tiếp cận chính sách giúp các nhà hoạch định, nhà quản lý nhìn nhận sự vận hành của nền kinh tế và tìm ra giải pháp hoàn thiện thúc đẩy xã hội áp dụng KTTH. Có nhiều công cụ chính sách khác nhau đang được bàn luận và áp dụng tại các quốc gia trên thế giới như mua sắm công xanh, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility-EPRs), tài chính xanh, nhãn sinh thái, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ về thuế/phí… Một trong những công cụ có vai trò quan trọng để thúc đẩy áp dụng KTTH là “tiêu chuẩn, quy chuẩn”. Bài viết phân tích vai trò, ý nghĩa trong tiếp cận về tiêu chuẩn, quy chuẩn, xu hướng phát triển tiêu chuẩn để thúc đẩy áp dụng KTTH và khuyến nghị cho Việt Nam.

Một cách tiếp cận đánh giá kết quả thực hiện chiến lược trong khu vực công tại Việt Nam

24-5-2023

 Hoạt động đánh giá chiến lược sau khi ban hành tại Việt Nam dần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, hoạt động này đa phần tập trung vào sơ kết hoặc tổng kết kết quả khi chuẩn bị xây dựng chiến lược cho giai đoạn mới. Hoạt động đánh giá kết quả chiến lược cũng chưa có hướng dẫn thống nhất nào về phương pháp, công cụ cũng như quy trình đánh giá.

Đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước ở Việt Nam

25-5-2023

Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước (ĐNN), chiếm 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái (HST) ĐNN tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, các khu rừng ngập mặn, các vùng ĐNN ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học (ĐDSH). Tuy nhiên, chất lượng ĐDSH các HST ĐNN của nước ta đang đối mặt với nguy cơ suy thoái ngày một nghiêm trọng, đặc biệt là các HST vùng triều, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cùng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm đang bị giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và quy mô diện tích phân bố. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về việc đánh giá suy thoái HST ĐNN, từ đó đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái HST ĐNN có thể áp dụng tại Việt Nam.

Đánh giá tổn thất và thiệt hại liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng - kinh nghiệm một số nước và hướng áp dụng cho Việt Nam

29-5-2023

 “Tổn thất và thiệt hại” là một chủ đề mới nổi trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu (BĐKH), trong các nghiên cứu, chính sách thực hiện hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, kết nối các lĩnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai. Đánh giá tổn thất và thiệt hại bao gồm phân tích, lượng giá các tổn thất đã xảy ra trong quá khứ hoặc dự báo, ước tính các thiệt hại liên quan đến biến đổi xảy ra trong tương lai. Ngoài việc đánh giá định lượng các tổn thất và thiệt hại (TT&TH), có thể thực hiện đánh giá định tính dựa vào cộng đồng. Bài viết giới thiệu phương pháp này từ thực tiễn áp dụng một số nước và đề xuất hướng áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề cần cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái rừng

30-5-2023

Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm.

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

31-5-2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Nhân rộng và phát triển mô hình Reuse-Refill nhằm góp phần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam

2-6-2023

Mô hình tái sử dụng-tái nạp đầy (Reuse-Refill) đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, giúp hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh thông qua việc thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng, tái sử dụng hàng hóa và nguyên liệu rất quan trọng đối với một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) bền vững, nơi các sản phẩm và nguyên liệu vẫn được lưu thông, giảm áp lực lên tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Tái sử dụng, tái nạp là một dạng của mô hình kinh doanh tuần hoàn và đang ngày càng được đón nhận phổ biến trong lĩnh vực về bao bì, đóng gói thực phẩm…

Kinh tế tuần hoàn: Bài toán cho xử lý chất thải ở Việt Nam

5-6-2023

Xử lý chất thải ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải so với yêu cầu thực tiễn. Sau nhiều nỗ lực tìm phương án phù hợp để xử lý chất thải, đến nay, chôn lấp chất thải rắn (CTR) sinh hoạt vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 70% so với các biện pháp khác. Bài toán đặt ra cho thời gian tới là sử dụng chính sách nào và cơ chế gì để chất thải không còn là nỗi ám ảnh đối với chiếm dụng diện tích đất, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và bức xúc xã hội?

Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia, hướng đến thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

6-6-2023

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng.