ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề cần cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái rừng

Ngày đăng: 30 | 05 | 2023

Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm.

     1. Khái quát chung

     Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm. Nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa là rất lớn, nhiều dự án đầu tư phải sử dụng đất rừng và không thể tránh khỏi những tổn thất về rừng nói chung và rừng tự nhiên nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định pháp lý rõ ràng, cũng như chưa có những tiêu chí, chỉ số cụ thể để trả lời câu hỏi “tổn hại ở mức độ nào là có thể chấp nhận?”. Sự thiếu rõ ràng này đã và đang gây khó khăn cho các chủ dự án trong việc thực hiện đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cũng như cho cơ quan chức năng trong quá trình thẩm định, ra quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM, vì vậy cần thiết phải nghiên cứu để sớm có căn cứ thẩm định và lựa chọn dự án một cách chính xác nhất, đảm bảo việc phát triển kinh tế đi đôi với BVMT, thực hiện theo đúng tinh thần Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/1/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng và thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc không đánh đổi môi trường vì mục đích kinh tế.

     2. Kinh nghiệm trong việc ĐTM của một số dự án đầu tư tới HST rừng

     Ngân hàng Thế giới (World Bank)

     Ngân hàng Thế giới (NHTG) là tổ chức vốn có những quy đinh chặt chẽ và nghiêm ngặt nhất trong ĐTM đối với dự án xin tài trợ, đặc biệt là dự án tác động đến HST rừng. NHTG cho rằng, tiêu chuẩn về môi trường đối với các dự án tác động đến HST rừng bao gồm các vấn đề cốt lõi là bảo vệ và bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), duy trì các dịch vụ của HST và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững. Các chính sách an toàn của NHTG yêu cầu các dự án phải thực hiện tham vấn người dân bị ảnh hưởng bởi dự án và các tổ chức phi Chính phủ tại địa phương trong quá trình thực hiện ĐTM.

     NHTG phân loại các dự án dựa trên quy mô, phạm vi, vị trí, mức độ nhạy cảm của dự án và đặc điểm cũng như mức độ của các tác động môi trường tiềm ẩn. Ngay từ ban đầu tiếp nhận hồ sơ dự án, NHTG đã tiến hành sàng lọc dự án, đây là bước quan trọng. Việc sàng lọc tính hợp lệ của dự án là để tránh các tác động môi trường và xã hội nghiêm trọng không thể giảm thiểu được. Tiêu chí không hợp lệ được NHTG chú trọng, đó là: (i) vi phạm các chính sách cấm của NHTG, ví dụ: sự suy giảm nghiêm trọng hoặc biến đổi môi trường sống tự nhiên tới ngưỡng...; (ii) vi phạm các nghĩa vụ quốc gia liên quan đến các công ước môi trường quốc tế; (iii) các tác động môi trường xã hội quá phức tạp và nghiêm trọng vượt quá khả năng của Ban Quản lý dự án để kiểm soát. Một dự án nếu thuộc một trong các tiêu chí không hợp lệ này sẽ không được nhận hỗ trợ tài chính.

     Ngân hàng thế giới sẽ không tài trợ các dự án làm suy thoái hoặc làm biến đổi những nơi cư trú đặc biệt quan trọng (khu vực được bảo vệ, hoặc những vị trí có tầm quan trọng về ĐDSH). Các hoạt động của dự án có khả năng gây ra sự biến đổi (biến mất) nghiêm trọng, hoặc gây suy thoái các môi trường sinh thái quan trọng. Sự biến mất có thể là tác động trực tiếp từ các hoạt động xây dựng, hoặc là tác động gián tiếp thông qua các hành động của con người gây ra khi thực hiện dự án. Các dự án sau sẽ không có đủ điều kiện để NHTG tài trợ cho dự án: (i) Các dự án có liên quan đến việc chuyển đổi hoặc suy thoái môi trường sống tự nhiên của các loài quan trọng; (ii) Các dự án có liên quan đến việc chuyển đổi đáng kể hoặc suy thoái đất rừng quan trọng; (iii) Các dự án làm ngược với thoả thuận về môi trường quốc tế; (iv) Các dự án được đặt trong khu vực có nguồn tài nguyên văn hóa vật thể.

     Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)

     Các tiêu chuẩn về môi trường của ADB đối với các dự án tác động tới HST rừng chứa đựng các yêu cầu cụ thể đối với các loại nơi cư trú khác nhau, gắn với giá trị bảo tồn tiềm tàng của chúng. Dự án không được phép làm biến đổi hoặc xuống cấp nghiêm trọng nơi cư trú tự nhiên trừ khi: (i) không còn phương án thay thế khả thi nào về mặt kỹ thuật và tài chính: (ii) một phân tích toàn diện cho thấy rằng, lợi ích tổng thể từ dự án vượt trội hơn nhiều so với các chi phí dự án, gồm cả các phí tổn môi trường; (iii) sự biến đổi hoặc xuống cấp môi trường được giảm bớt hoặc hạn chế phù hợp. Dự án cần tìm mọi cách để tránh làm biến đổi hoặc xuống cấp nghiêm trọng nơi cư trú tự nhiên, chủ yếu thông qua dịch chuyển địa điểm dự án hoặc hạng mục dự án. Các biện pháp hạn chế tác động cần được thiết kế sao cho ít nhất không gây tổn thất nhiều tới ĐDSH.

     Các dự án không được phép tiến hành các hoạt động trong các khu vực nơi cư trú thiết yếu trừ khi: (i) không có tác động bất lợi có thể đo lường nào; (ii) dự án được dự báo không làm giảm số lượng của các loài được công nhận là loài nguy cấp hoặc cực kỳ nguy cấp, hoặc hao hụt diện tích nơi cư trú tới mức làm tổn hại tính bền vững của HST mang tính đại diện; (iii) các tác động được hạn chế để ít nhất không gây thiệt hạị nhiều tới ĐDSH. Các loài nguy cấp và cực kỳ nguy cấp là những loài được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng. Danh sách đỏ của IUCN về các loài bị đe dọa (Sách đỏ) thường được coi là tham chiếu quốc tế toàn diện nhất về hiện trạng bảo tồn của các loài thực vật và động vật.

     Khi các dự án được đề xuất sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo như rừng, nước mặt hoặc đất, đánh giá môi trường cần cân nhắc liệu các nguồn tài nguyên có được quản lý bền vững trong vòng đời dự án hay không và xác định các tác động tồn dư sau dự án. Thiết kế biện pháp bồi hoàn ĐDSH được tiến hành như một phần của quy trình đánh giá môi trường, và được đưa vào các tài liệu đánh giá môi trường liên quan. Bồi hoàn đa dạng sinh học phải được thiết kế tuân thủ tất cả các luật lệ quốc gia và quốc tế liên quan. Chủ dự án được khuyến khích cung cấp bằng chứng cho thấy hiệu quả của các biện pháp bồi hoàn đề xuất, gồm cả kết quả từ các dự án tương tự.

     Cộng đồng chung châu Âu (EC)

     Cộng đồng chung châu Âu (EC) đã phát triển khung hướng dẫn ĐTM, sử dụng các bộ câu hỏi để đánh giá tác động đến các thành phần môi trường. Khung đánh giá trên gồm các phần: (1) mô tả dự án; (2) các giải pháp thay thế; (3) mô tả các yếu tố môi trường có thể bị dự án tác động; (4) mô tả các tác động nghiêm trọng của dự án đến các yếu tố môi trường; (5) các giải pháp giảm thiểu; (6) kết luận phi-kỹ thuật; (7) kết luận chất lượng khung báo cáo.

     Từng mục nói trên bao gồm các câu hỏi để xác định tác động và xác định giải pháp để giảm thiểu các tác động. Phần (3) đặt ra các câu hỏi để xác định các thành phần môi trường tác động, đồng thời đưa ra các câu hỏi về cách thức thu thập thông tin và tiến hành khảo sát. Phần (4) đưa ra các câu hỏi về (i) phạm vi tác động; (ii) các tác động trực tiếp của dự án; (iii) các tác động gián tiếp của dự án; (iv) đánh giá mức độ nghiêm trọng của các tác động; (v) các phương pháp sử dụng để đánh giá tác động. Đối với từng câu hỏi, EC yêu cầu đánh giá sự liên quan của thông tin đưa ra, khả năng xử lý các vấn đề nêu ra và các thông tin cần thiết để có đánh giá đầy đủ/xử lý triệt để các tác động của dự án.

     Liên minh châu Âu (EU)

     Khi triển khai thực hiện các dự án phát triển, chủ dự án cần xác định các tiêu chí có khả năng ảnh hưởng tới hệ sinh thái rừng thông qua việc thu thập, đánh giá thông tin, dữ liệu để trả lời một số câu hỏi sau: (i) Dự án đề xuất có trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng hoặc tổn thất toàn bộ của HST hoặc loại hình sử dụng đất, do đó dẫn đến mất mát các dịch vụ HST hiện có? Trong khuôn khổ Dự án đề xuất, việc khai thác các HST hoặc loại hình sử dụng đất có trở nên quá mức hoặc không bền vững?; (ii) Dự án đề xuất có tác động tiêu cực đến các quy trình và dịch vụ của hệ sinh thái, đặc biệt là các hệ sinh thái cung cấp dịch vụ cho cộng đồng địa phương?; (iii) Dự án đề xuất có phụ thuộc vào các dịch vụ hệ sinh thái không?; (iv) Dự án đề xuất có phát sinh khí thải, nước thải và các chất thải là hóa chất, bức xạ, nhiệt hoặc tiếng ồn trong các khu vực cung cấp dịch vụ HST chính?;...

     Chủ dự án cần kết hợp các khía cạnh môi trường vào lựa chọn địa điểm của dự án để đảm bảo việc phân vùng môi trường sống không có tác động đáng kể tới hệ sinh thái rừng. Chủ dự án có thể sử dụng phương pháp đánh giá nhạy cảm môi trường đối với khu vực dự kiến triển khai dự án. Phương pháp này tính toán chỉ số khu vực nhạy cảm môi trường thông qua phân tích đa tiêu chí, dựa trên 4 chỉ số chất lượng là thổ nhưỡng, khí hậu, thảm thực vật và biện pháp quản lý. Các khu vực được chia thành 3 cấp: nguy cấp, dễ tổn thương, có nguy cơ.

     Ban Thư ký Công ước Đa dạng sinh học (CBD)

     Công ước quốc tế phổ biến nhất với mục tiêu bảo tồn ĐDSH, đã xây dựng và ban hành sổ tay hướng dẫn lồng ghép ĐDSH trong ĐTM. Để đánh giá tác động lên ĐDSH của các hoạt động phát triển, trước hết cần xác định các yếu tố tác động trực tiếp và gián tiếp gây ảnh hưởng đến ĐDSH. Các thay đổi trực tiếp bao gồm: (i) thay đổi mục đích sử dụng đất và lớp phủ mặt đất; (ii) phân mảnh và cô lập quần thể sinh vật; (iii) khai thác, săn bắt và sự biến mất của các loài động thực vật; (iv) các tác động từ bên ngoài như khí thải, nước thải, hóa chất; (v) sự xáo trộn hệ sinh thái; (vi) sự xâm nhập của các loài ngoại lai hoặc các sinh vật biến đổi gen; (vii) phục hồi rừng/HST. Các thay đổi gián tiếp bao gồm: (i) thay đổi về dân cư; (ii) kinh tế; (iii) chính trị xã hội; (iv) văn hóa, các thay đổi về quy trình công nghệ (CBD, 2006).

     Tất cả các thay đổi trực tiếp và gián tiếp tác động qua lại với nhau và gây ra những tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với HST rừng. Do vậy, Ban thư ký CBD đề xuất các bên tham gia, trong đó có Việt Nam, nên xác định và giám sát các hoạt động có tác động tiêu cực tới bảo tồn và sử dụng bền vững các tài nguyên sinh vật. Các tác động của các hoạt động phát triển lên HST có thể được đánh giá thông qua một số khía cạnh sau: thành phần HST (gồm những gì và số lượng bao nhiêu? – trong một thời gian cụ thể), cấu trúc HST (các quần thể sinh học được tổ chức theo thời gian và không gian như thế nào?), các quá trình sinh thái – bao gồm chức năng HST (các quá trình tự nhiên và tác động con người nào có ý nghĩa quan trọng đối với việc tạo ra/duy trì HST?). Ban thư ký CBD đã đưa ra hướng dẫn đánh giá tác động của các hoạt động phát triển lên ĐDSH ở tất cả các bước triển khai dự án, trong đó sử dụng rất nhiều bộ câu hỏi để xác định các tác động từ từng hoạt động cụ thể của dự án.

    Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO)

     Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc cũng phát hành bộ hướng dẫn ĐTM dành cho các dự án sử dụng nguồn hỗ trợ của FAO, trong đó có các nguyên tắc đảm bảo hạn chế tác động tới tài nguyên rừng. Khung đánh giá tác động môi trường của FAO cũng sử dụng các bộ câu hỏi để đánh giá tác động của các hoạt động cụ thể trong dự án đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường (FAO, 2011).

     Ngoài ra, một nghiên cứu điển hình khác liên quan tới xây dựng hướng dẫn đánh giá tác động sinh thái học của các dự án tại Anh và Ireland được Viện Sinh thái và Quản lý Môi trường Vương quốc Anh thực hiện năm 2016 (CIEEM, 2016). Theo đó, CIEEM yêu cầu các chủ đầu tư khi tiến hành ĐTM phải xây dựng cơ sở dữ liệu về hiện trạng môi trường nền, rồi phân tích các tác động tiềm ẩn của dự án đến các tài nguyên sinh học theo hiện trạng môi trường nền đã xác định. Việc đánh giá không chỉ xác định các tác động trực tiếp, khung hướng dẫn của CIEEM còn yêu cầu chủ đầu tư phải đánh giá các tác động sinh thái tích lũy. Như vậy, các tác động môi trường tích lũy cũng cần phải được đánh giá và có biện pháp phòng ngừa để tránh xảy ra các sự cố môi trường đáng tiếc.

     3. Tổng kết kinh nghiệm và một số vấn đề cần cân nhắc trong việc ĐTM của các dự án đầu tư phát triển đến HST rừng

     Khi đánh giá tác động của các dự án tới môi trường/HST rừng đều đặt các dự án trong một bối cảnh tổng thể để đánh giá toàn diện các tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, tác động tích lũy và tác động cộng dồn, từ đó đề xuất các giải pháp thích ứng, giảm thiểu, đền bù phù hợp với các tác động tiềm ẩn của dự án.

     Các dự án cần tiến hành sàng lọc trước tiên, để tránh các tác động môi trường và xã hội nghiêm trọng không thể giảm thiểu được.

     ĐTM của các dự án đầu tư phát triển đến HST rừng cần phải đặt trọng tâm vào việc đánh giá tác động tới ĐDSH, và cần phải có các chỉ tiêu đánh giá cụ thể xem suy giảm ĐDSH ở mức độ nào, tránh việc đánh giá chung chung.

     Các bộ công cụ hỗ trợ đánh giá tác động của dự án tới ĐDSH và HST rừng đều đưa ra các tiêu chí và sử dụng các bộ câu hỏi phù hợp với từng tiêu chí để đánh giá tác động của các hoạt động cụ thể ở từng giai đoạn triển khai dự án.

     Xây dựng cơ sở dữ liệu về hiện trạng môi trường nền, rồi phân tích các tác động tiềm ẩn của dự án đến các tài nguyên sinh học theo hiện trạng môi trường nền đã xác định.

     Đánh giá môi trường cần cân nhắc các nguồn tài nguyên có được quản lý bền vững trong vòng đời dự án hay không và xác định các tác động tồn dư sau dự án.

     Kế hoạch triển khai dự án phát triển phải bao gồm phương án bồi hoàn ĐDSH, sau khi các biện pháp phòng tránh, giảm thiểu và khôi phục đã được áp dụng. Phương án bồi hoàn ĐDSH phải được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành của quốc gia và các điều luật, công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Thiết kế biện pháp bồi hoàn ĐDSH được tiến hành như một phần của quy trình đánh giá môi trường, và được đưa vào các tài liệu đánh giá môi trường liên quan.

     Dự án phát triển không được đưa bất kỳ loài ngoại lai nào vào khu vực dự án, vùng hoặc quốc gia trừ khi việc đó được thực hiện phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Ngoài ra, cần yêu cầu có biện pháp đánh giá khả năng đưa vào một cách vô tình hoặc ngoài dự kiến các loài ngoại lai xâm hại này, đồng thời xác định các biện pháp để giảm thiểu tối đa nguy cơ đó.

     Khi dự án phát triển có khả năng có tác động tiêu cực đến dịch vụ HST rừng, cần thực hiện rà soát có hệ thống để xác định các dịch vụ HST ưu tiên, bao gồm các dịch vụ ưu tiên thuộc hai nhóm: (i) nhóm các dịch vụ mà hoạt động của dự án có khả năng có tác động nhất và do đó sẽ dẫn đến các tác động tiêu cực đến cộng đồng bị ảnh hưởng; (ii) nhóm dịch vụ mà dự án phải dựa vào để hoạt động. Đồng thời, phải tiến hành tham vấn cộng đồng trong quá trình xác định các dịch vụ HST ưu tiên.

     Bộ TN&MT cần phải tăng cường hệ thống đánh giác tác động môi trường cho đánh giác tác động đa dạng sinh học hiệu quả và xây dựng lộ trình cho bồi hoàn ĐDSH để vận hành chính sách và thiết lập các chương trình bồi hoàn quốc gia tại Việt Nam. Có rất nhiều phương pháp luận và các tiếp cận khác nhau cho đền bù và bồi hoàn ĐDSH trên thế giới, điều quan trọng là cách tiếp cận ở Việt Nam đòi hỏi đơn giản và dễ áp dụng, nếu không rất khó sử dụng.

     Cần nghiên cứu xây dựng hướng dẫn cho đánh giá tác động môi trường lâm nghiệp. Những dự án phát triển trong HST rừng cần có chương trình giám sát cụ thể và liên tục mới đánh giá được tác động lâu dài của dự án. 

ThS. Phan Thị Kim Oanh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

 

     Tài liệu tham khảo

  1. ADB (2012). Environmental Safeguards: a good practice sourcebook draft working document
  2. Bộ Công Thương (2016). Dự án hiệu quả năng lượng cho các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam – Khung chính sách quản lý môi trường và xã hội. Hà Nội
  3. CIEEM. (2016). Guidelines for Ecological Impact Assessment in the UK and Ireland: Terrestrial, Freshwater and Coastal, 2nd edition. Winchester: Chartered Institute of Ecology and Environmental Management.
  4. EC (2011). EC Guidance: The implementation of the Birds and Habitats Directives in estuaries and coastal zones with particular attention to port developments and dredging
  5. European Commission. (2001). Guidance on EIA: EIS review. Luxembourg: Office for Official Publications of the European Communities,.
  6. EEA (2010). Assessing biodiversity in Europe - the 2010 report
  7. FAO. (2011). Environmental impact assessment. Rome.
  8. Secretariat of the Convention on Biological Diversity, Netherlands Commission for Environmental Assessment (2006). Biodiversity in Impact Assessment, Background Document to CBD Decision VIII/28: Voluntary Guidelines on Biodiversity-Inclusive Impact Assessment, Canada.

NỘI DUNG KHÁC

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

31-5-2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Nhân rộng và phát triển mô hình Reuse-Refill nhằm góp phần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam

2-6-2023

Mô hình tái sử dụng-tái nạp đầy (Reuse-Refill) đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, giúp hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh thông qua việc thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng, tái sử dụng hàng hóa và nguyên liệu rất quan trọng đối với một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) bền vững, nơi các sản phẩm và nguyên liệu vẫn được lưu thông, giảm áp lực lên tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Tái sử dụng, tái nạp là một dạng của mô hình kinh doanh tuần hoàn và đang ngày càng được đón nhận phổ biến trong lĩnh vực về bao bì, đóng gói thực phẩm…

Kinh tế tuần hoàn: Bài toán cho xử lý chất thải ở Việt Nam

5-6-2023

Xử lý chất thải ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải so với yêu cầu thực tiễn. Sau nhiều nỗ lực tìm phương án phù hợp để xử lý chất thải, đến nay, chôn lấp chất thải rắn (CTR) sinh hoạt vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 70% so với các biện pháp khác. Bài toán đặt ra cho thời gian tới là sử dụng chính sách nào và cơ chế gì để chất thải không còn là nỗi ám ảnh đối với chiếm dụng diện tích đất, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và bức xúc xã hội?

Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia, hướng đến thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

6-6-2023

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng.

Kinh nghiệm của Đài Loan trong công tác quản lý môi trường và bài học cho Việt Nam

7-6-2023

Tăng cường  BVMT theo phương châm phòng ngừa là chính, kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường; loại bỏ các dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng là các quan điểm, mục tiêu quan trọng và xuyên suốt đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, một trong các nhiệm vụ cấp bách hiện nay là “đẩy mạnh quản trị môi trường trong các doanh nghiệp”.

Lộ trình của Liên hợp quốc đề xuất các giải pháp cắt giảm ô nhiễm nhựa toàn cầu 

12-6-2023

(Theo UNEP) Ô nhiễm nhựa có thể giảm 80% vào năm 2040 nếu các quốc gia và công ty thực hiện những thay đổi sâu sắc về chính sách và thị trường bằng cách sử dụng các công nghệ hiện có, theo một báo cáo mới của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Báo cáo được công bố trước vòng đàm phán thứ hai tại Paris về một thỏa thuận toàn cầu nhằm đánh bại ô nhiễm nhựa, đồng thời phác thảo mức độ và bản chất của những thay đổi cần thiết để chấm dứt ô nhiễm nhựa và tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn.

Lồng ghép giảm phát thải khí nhà kính vào quy trình quản lý các dự án đầu tư

13-6-2023

Các dự án đầu tư (DAĐT) có đóng góp lớn đối với tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quy trình quản lý các dự án mới chỉ đề cập đến các vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội mà chưa quan tâm đến giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Kể từ năm 2021, Việt Nam bắt đầu thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK với cam kết đến năm 2030, sẽ giảm 9% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU). Vì vậy, việc lồng ghép các biện pháp giảm phát thải KNK trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cũng như trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành DAĐT là rất cần thiếtt, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải KNK , phát triển bền vững đất nước.

Kinh nghiệm quốc tế về chỉ số đổi mới sinh thái và bài học khuyến nghị cho Việt Nam

15-6-2023

Công tác BVMT thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo và xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, suy thoái tài nguyên diễn ra ở nhiều nơi ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, quá trình phát triển đất nước. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường nước ta thời gian qua là do quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu, còn chưa thân thiện với môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên và năng lượng, làm phát sinh nhiều chất thải. Đổi mới sinh thái (ĐMST) chính là một trong các hoạt động để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ bền vững, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

Đánh giá các mối nguy hại tác động đến chất lượng môi trường sống và đa dạng sinh học Vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An

19-6-2023

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường là một trong những phương hướng, nhiệm vụ đề ra trong định hướng của Đảng, Nhà nước về BVMT với quan điểm “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. Chất lượng môi trường sống là nền tảng quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), duy trì các chức năng và giá trị của hệ sinh thái tự nhiên trong việc đáp ứng điều kiện sinh tồn cho các loài, duy trì sự cân bằng của các hệ sinh thái (HST). Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia (VQG) Pù Mát được đánh giá là trung tâm của Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An với các giá trị dịch vụ HST có quy mô rộng lớn, nơi cung cấp nhiều dịch vụ HST quan trọng như: các dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết và văn hóa.

Đánh giá nỗ lực bảo vệ môi trường của Việt Nam thông qua Chỉ số hoạt động bảo vệ môi trường - EPI

19-6-2023

Chỉ số hoạt động môi trường (EPI) do trường Đại học Yale và Đại học Columbia (Mỹ) xây dựng năm 2006 và được áp dụng chính thức từ năm 2008 đến nay. Chỉ số EPI là tập hợp các chỉ số trong nhiều lĩnh vực khác nhau với mục đích đánh giá nỗ lực thực hiện mục tiêu về môi trường của các quốc gia, được công bố định kỳ 2 năm một lần. Bài viết tập trung đánh giá nỗ lực BVMT của Việt Nam thông qua EPI trong năm 2020.

Thực hành giảm rác thải nhựa cho công ty du lịch

20-6-2023

​​​​​​​Nhựa là một loại vật liệu hữu ích đã đóng góp rất nhiều trong việc cải thiện và thay đổi nhiều lĩnh vực, xuất hiện trong những vật dụng hàng ngày, từ bao bì bao gói sản phẩm, đồ bảo hộ lao động, đến những ứng dụng ít được biết đến hơn như các thiết bị công nghệ, điện tử, dụng cụ phòng thí nghiệm, dụng cụ y tế và các ứng dụng kỹ thuật cao. Tuy nhiên, nhựa cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và hệ lụy nặng nề cho môi trường và sức khỏe con người khi không được sử dụng đúng, thải bỏ không kiểm soát và xử lý không hợp vệ sinh.