ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Lộ trình của Liên hợp quốc đề xuất các giải pháp cắt giảm ô nhiễm nhựa toàn cầu 

Ngày đăng: 12 | 06 | 2023

(Theo UNEP) Ô nhiễm nhựa có thể giảm 80% vào năm 2040 nếu các quốc gia và công ty thực hiện những thay đổi sâu sắc về chính sách và thị trường bằng cách sử dụng các công nghệ hiện có, theo một báo cáo mới của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Báo cáo được công bố trước vòng đàm phán thứ hai tại Paris về một thỏa thuận toàn cầu nhằm đánh bại ô nhiễm nhựa, đồng thời phác thảo mức độ và bản chất của những thay đổi cần thiết để chấm dứt ô nhiễm nhựa và tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn.

 Báo cáo “Tắt vòi: Cách thức thế giới có thể chấm dứt ô nhiễm nhựa và tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn” là một phân tích tập trung vào các giải pháp thực tiễn cụ thể, sự thay đổi thị trường và các chính sách có thể cung cấp thông tin cho chính phủ để tính toán và thực hiện.

Bà Inger Andersen, Giám đốc Điều hành UNEP cho biết: “Cách chúng ta sản xuất, sử dụng và thải bỏ nhựa đang gây ô nhiễm hệ sinh thái, tạo ra rủi ro cho sức khỏe con người và gây bất ổn cho khí hậu”. “Báo cáo này của UNEP đưa ra một lộ trình nhằm giảm thiểu đáng kể những rủi ro này thông qua việc áp dụng cách tiếp cận tuần hoàn nhằm loại bỏ nhựa ra khỏi hệ sinh thái, ra khỏi cơ thể chúng ta và trong nền kinh tế. Nếu chúng ta tuân theo lộ trình này, bao gồm cả trong các cuộc đàm phán về thỏa thuận ô nhiễm nhựa, chúng ta có thể mang lại những thắng lợi lớn về kinh tế, xã hội và môi trường.”

Sự dịch chuyển thị trường cần thiết cho sự chuyển đổi thị trường theo hướng tuần hoàn. Để giảm 80% ô nhiễm nhựa trên toàn cầu vào năm 2040, báo cáo đề xuất trước tiên hãy loại bỏ các loại nhựa có vấn đề và không cần thiết để thu hẹp quy mô vấn đề. Sau đó, báo cáo kêu gọi ba thay đổi thị trường - tái sử dụng, tái chế và định hướng lại và đa dạng hóa sản phẩm:

- Tái sử dụng: Thúc đẩy các lựa chọn tái sử dụng, bao gồm chai lọ, bao bì,  có thể tái sử dụng, nhà máy phân phối số lượng lớn, kế hoạch trả lại tiền đặt cọc, kế hoạch thu hồi bao bì..., có thể giảm 30% ô nhiễm nhựa vào năm 2040. Để nhận ra nhận ra tiềm năng của nó, các Chính phủ phải hỗ trợ xây dựng ngành kinh doanh tái sử dụng mạnh mẽ hơn nữa.

- Tái chế: Có thể giảm ô nhiễm nhựa thêm  được 20% vào năm 2040 nếu tái chế trở thành một hoạt động kinh doanh ổn định và có lợi nhuận nhiều hơn. Loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch, thực thi các hướng dẫn thiết kế để tăng cường khả năng tái chế và các biện pháp khác sẽ làm tăng giá trị kinh tế của nhựa có thể tái chế từ 21 lên 50%.

- Định hướng lại và đa dạng hóa: Thay thế các sản phẩm như bao gói, túi và đồ mang đi bằng nhựa bằng các sản phẩm làm từ chất liệu thay thế (chẳng hạn như giấy hoặc vật liệu có thể phân hủy) có thể giúp giảm thêm 17% ô nhiễm nhựa.

Đến năm 2040, ngay cả khi đã dùng các biện pháp trên thì 100 triệu tấn nhựa từ các sản phẩm sử dụng một lần và có thời gian sử dụng ngắn vẫn sẽ cần được xử lý an toàn hàng năm - cùng với một hậu quả đáng kể từ ô nhiễm nhựa hiện có. Điều này có thể được giải quyết bằng cách thiết lập và thực thi các tiêu chuẩn về thiết kế và an toàn trong xử lý chất thải nhựa không thể tái chế, và bằng cách yêu cầu các nhà sản xuất chịu trách nhiệm về các sản phẩm thải ra hạt vi nhựa, cùng với những biện pháp khác.

Nhìn chung, việc chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn sẽ tiết kiệm được 1,27 nghìn tỷ USD, có tính đến chi phí và doanh thu tái chế. Hơn 3,25 nghìn tỷ USD sẽ được tiết kiệm từ việc tránh các tác động ngoại vi như sức khỏe, khí hậu, ô nhiễm không khí, suy thoái hệ sinh thái biển và các chi phí pháp lý liên quan. Sự thay đổi này cũng có thể dẫn đến tăng ròng 700.000 việc làm vào năm 2040, chủ yếu ở các nước có thu nhập thấp, cải thiện đáng kể sinh kế của hàng triệu người lao động trong môi trường phi chính thức.

Chi phí đầu tư cho thay đổi hệ thống được khuyến nghị là đáng kể, nhưng dưới mức chi tiêu nếu không có thay đổi: 65 tỷ USD/năm so với 113 tỷ USD/năm. Phần lớn trong số này có thể được huy động bằng cách chuyển các khoản đầu tư theo kế hoạch cho các cơ sở sản xuất mới - không còn cần thiết thông qua việc giảm nhu cầu nguyên liệu - hoặc đánh thuế sản xuất nhựa nguyên chất vào cơ sở hạ tầng tuần hoàn cần thiết. Tuy nhiên, thời gian là điều cốt yếu: chậm trễ 5 năm có thể dẫn đến sự gia tăng 80 triệu tấn ô nhiễm nhựa vào năm 2040.

Chi phí cao nhất trong cả nền kinh tế nhiều rác thải và nền kinh tế tuần hoàn là quá trình vận hành. Với quy định nhằm đảm bảo nhựa được thiết kế tuần hoàn, các chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) có thể trang trải các chi phí vận hành này để đảm bảo tính tuần hoàn của hệ thống thông qua việc yêu cầu các nhà sản xuất tài trợ cho việc thu gom, tái chế và thải bỏ các sản phẩm nhựa khi hết hạn sử dụng một cách có trách nhiệm.

Các chính sách được quốc tế thống nhất có thể giúp vượt qua các giới hạn của kế hoạch quốc gia và hành động kinh doanh, duy trì nền kinh tế nhựa toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, mở ra các cơ hội kinh doanh và tạo việc làm. Chúng có thể bao gồm các tiêu chí đã được thống nhất đối với các sản phẩm nhựa có thể bị cấm, các hiểu biết chung xuyên biên giới, các quy tắc về tiêu chuẩn hoạt động tối thiểu theo yêu cầu của các chương trình EPR và các tiêu chuẩn khác.

Báo cáo khuyến nghị rằng khung tài chính toàn cầu có thể là một phần của các chính sách quốc tế nhằm cho phép vật liệu tái chế cạnh tranh bình đẳng với vật liệu nguyên chất, tạo ra nền kinh tế có quy mô cho các giải pháp và thiết lập các hệ thống giám sát và cơ chế tài chính.

Điều quan trọng là các nhà hoạch định chính sách được khuyến khích áp dụng cách tiếp cận tích hợp các công cụ quản lý và chính sách giải quyết các hành động trong suốt vòng đời, vì chúng tương hỗ lẫn nhau hướng tới mục tiêu chuyển đổi nền kinh tế. Ví dụ, các quy tắc thiết kế để làm cho các sản phẩm có thể tái chế về mặt kinh tế có thể được kết hợp với các mục tiêu để liên kết hàm lượng tái chế và các khích lệ tài chính cho các nhà máy tái chế.

Báo cáo cũng đề cập đến các chính sách cụ thể, bao gồm các tiêu chuẩn về thiết kế, an toàn và nhựa có thể phân hủy và phân hủy sinh học; mục tiêu tái chế tối thiểu; chương trình EPR; thuế; lệnh cấm; chiến lược truyền thông; mua sắm công và dán nhãn.

Toàn văn báo cáo tại đây.

Trung tâm Tư vấn, Đào tạo và Dịch vụ tài nguyên và môi trường

NỘI DUNG KHÁC

Lồng ghép giảm phát thải khí nhà kính vào quy trình quản lý các dự án đầu tư

13-6-2023

Các dự án đầu tư (DAĐT) có đóng góp lớn đối với tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quy trình quản lý các dự án mới chỉ đề cập đến các vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội mà chưa quan tâm đến giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Kể từ năm 2021, Việt Nam bắt đầu thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK với cam kết đến năm 2030, sẽ giảm 9% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU). Vì vậy, việc lồng ghép các biện pháp giảm phát thải KNK trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cũng như trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành DAĐT là rất cần thiếtt, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải KNK , phát triển bền vững đất nước.

Kinh nghiệm quốc tế về chỉ số đổi mới sinh thái và bài học khuyến nghị cho Việt Nam

15-6-2023

Công tác BVMT thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo và xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, suy thoái tài nguyên diễn ra ở nhiều nơi ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, quá trình phát triển đất nước. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường nước ta thời gian qua là do quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu, còn chưa thân thiện với môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên và năng lượng, làm phát sinh nhiều chất thải. Đổi mới sinh thái (ĐMST) chính là một trong các hoạt động để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ bền vững, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

Đánh giá các mối nguy hại tác động đến chất lượng môi trường sống và đa dạng sinh học Vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An

19-6-2023

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường là một trong những phương hướng, nhiệm vụ đề ra trong định hướng của Đảng, Nhà nước về BVMT với quan điểm “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. Chất lượng môi trường sống là nền tảng quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), duy trì các chức năng và giá trị của hệ sinh thái tự nhiên trong việc đáp ứng điều kiện sinh tồn cho các loài, duy trì sự cân bằng của các hệ sinh thái (HST). Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia (VQG) Pù Mát được đánh giá là trung tâm của Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An với các giá trị dịch vụ HST có quy mô rộng lớn, nơi cung cấp nhiều dịch vụ HST quan trọng như: các dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết và văn hóa.

Đánh giá nỗ lực bảo vệ môi trường của Việt Nam thông qua Chỉ số hoạt động bảo vệ môi trường - EPI

19-6-2023

Chỉ số hoạt động môi trường (EPI) do trường Đại học Yale và Đại học Columbia (Mỹ) xây dựng năm 2006 và được áp dụng chính thức từ năm 2008 đến nay. Chỉ số EPI là tập hợp các chỉ số trong nhiều lĩnh vực khác nhau với mục đích đánh giá nỗ lực thực hiện mục tiêu về môi trường của các quốc gia, được công bố định kỳ 2 năm một lần. Bài viết tập trung đánh giá nỗ lực BVMT của Việt Nam thông qua EPI trong năm 2020.

Thực hành giảm rác thải nhựa cho công ty du lịch

20-6-2023

​​​​​​​Nhựa là một loại vật liệu hữu ích đã đóng góp rất nhiều trong việc cải thiện và thay đổi nhiều lĩnh vực, xuất hiện trong những vật dụng hàng ngày, từ bao bì bao gói sản phẩm, đồ bảo hộ lao động, đến những ứng dụng ít được biết đến hơn như các thiết bị công nghệ, điện tử, dụng cụ phòng thí nghiệm, dụng cụ y tế và các ứng dụng kỹ thuật cao. Tuy nhiên, nhựa cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và hệ lụy nặng nề cho môi trường và sức khỏe con người khi không được sử dụng đúng, thải bỏ không kiểm soát và xử lý không hợp vệ sinh.

Chỉ số Đổi mới sinh thái và đề xuất áp dụng ở Việt Nam

21-6-2023

Chỉ số Đổi mới sinh thái (ĐMST) là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến ở châu Âu và từng bước được giới thiệu áp dụng tại các nước đang phát triển ở châu Á những năm gần đây. Bài viết đề cập đến sự cần thiết của chỉ số ĐMST; các tiêu chí, các trụ cột, khung bộ chỉ số và phương pháp tính toán bộ chỉ số ĐMST cho các tỉnh, thành phố ở Việt Nam để bạn đọc tham khảo.

Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam về áp dụng phương pháp phân tích đánh đổi (trade-offs analysis) trong xây dựng chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên

22-6-2023

 Bài viết trình bày về kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, bài học cho Việt Nam về áp dụng công cụ InVEST trong phân tích đánh đổi (trade-offs analysis) phục vụ xây dựng chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên.

Cơ sở khoa học, xu hướng thế giới và bối cảnh của Việt Nam về thuế các bon

23-6-2023

Định giá các bon đang được xem là cách tiếp cận dựa vào thị trường hứa hẹn nhất thông qua một trong hai công cụ là thị trường giảm phát thải và thuế các bon. Thuế các bon là một loại thuế áp dụng đối với lượng khí các bon phát thải của quá trình đốt cháy nhiên liệu tạo ra khí CO2 - một trong những tác nhân gây ra hiện tượng nóng lên của Trái đất và biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu.

Thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng không (Net zero emission): Kinh nghiệm của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam

26-6-2023

Trong những năm gần đây, cụm từ “phát thải ròng bằng không” hay “net zero emission - NZE” đã trở thành chủ đề quen thuộc tại nhiều diễn đàn về biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững. Năm 2015, Thỏa thuận Paris về BĐKH được 192 quốc gia thông qua, tại điểm 4.1 nhấn mạnh “các bên tham gia hướng đến đỉnh phát thải khí nhà kính (KNK) càng sớm càng tốt… như vậy sẽ đạt được cân bằng giữa các nguồn phát thải và loại bỏ bởi các bể hấp thụ KNK vào giữa thế kỷ 21”.

Đa dạng các hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

27-6-2023

(Theo monre.gov.vn) - Theo dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi có thể nhận bồi thường với nhiều hình thức, như bằng đất, bằng tiền hoặc bằng nhà ở…

Quan hệ giữa chuyển đổi số, quản lý chất thải và kinh tế tuần hoàn

28-6-2023

  Kinh tế tuần hoàn (KTTH) thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính - chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ, hệ quả là tạo ra một lượng phế thải khổng lồ sang mô hình chú trọng việc quản lý, tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín, tránh tạo ra phế thải, giảm tác động xấu đến môi trường.

Các loại hình công nghệ cơ bản sử dụng trong hoạt động điều tra cơ bản, quan trắc và dự báo tài nguyên và môi trường

29-6-2023

Công nghệ đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động điều tra cơ bản (ĐTCB), quan trắc và dự báo (QT&DB) TN&MT.