ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Chỉ số Đổi mới sinh thái và đề xuất áp dụng ở Việt Nam

Ngày đăng: 21 | 06 | 2023

Chỉ số Đổi mới sinh thái (ĐMST) là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến ở châu Âu và từng bước được giới thiệu áp dụng tại các nước đang phát triển ở châu Á những năm gần đây. Bài viết đề cập đến sự cần thiết của chỉ số ĐMST; các tiêu chí, các trụ cột, khung bộ chỉ số và phương pháp tính toán bộ chỉ số ĐMST cho các tỉnh, thành phố ở Việt Nam để bạn đọc tham khảo.

     Sự cần thiết của bộ chỉ số ĐMST ở Việt Nam

     ĐMST được coi là thước đo mức độ ĐMST của quốc gia hay của doanh nghiệp, đã được áp dụng ở châu Âu từ nhiều năm nay và bước đầu đã được áp dụng cho các nước thuộc diễn đàn kinh tế Á-Âu ASEM. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, ĐMST nói chung và chỉ số ĐMST nói riêng còn là những thuật ngữ còn mới mẻ. Việc áp dụng chỉ số ĐMST sẽ góp phần đánh giá, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, bảo vệ môi trường, khả năng tăng trưởng và góp phần thực hiện phát triển bền vững. Áp dụng chỉ số ĐMST cho phép đo lường xu hướng ĐMST của quốc gia hay doanh nghiệp,nâng cao nhận thức của xã hội và doanh nghiệp, hướng đến phát triển bền vững.

     Theo kinh nghiệm quốc tế, hiện đang tồn tại hai bộ chỉ số về ĐMST được kiến nghị sử dụng cho các quốc gia, đó là chỉ số ĐMST của ASEM (Eco-innovation Idex – viết tắt là ASEI) do Trung tâm ĐMST cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của ASEM (ASEIC- Hàn Quốc) đề xuất và Bảng chấm điểm về ĐMST (Eco- innovation Scorboard- viết tắt là Eco-IS) do Bộ phận Quan sát về ĐMST (EIO – thuộc Liên minh Châu Âu) đề xuất. Như vậy, để phù hợp với xu thế chung của thế giới trong bối cảnh Hội nhập, Việt Nam cần có bộ chỉ số ĐMST có khả năng áp dụng cho Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế.

     Các tiêu chí áp dụng bộ chỉ số ĐMST cho Việt Nam

     Việc áp dụng bộ chỉ số ĐMST cho Việt Nam cần được xem xét kỹ lưỡng và nên xây dựng chỉ số này ở cấp tỉnh/thành phố và áp dụng thử ở phạm vi phù hợp trong một thời gian; sau đó xem xét đến hiệu quả, tác động của bộ chỉ số, hoàn thiện dần rồi mới áp dụng chính thức.

     Bộ chỉ số ĐMST áp dụng ở cấp tỉnh/thành phố cho Việt Nam cần đáp ứng những tiêu chí: Bảo đảm phản ánh đúng và đầy đủ nội dung của ĐMST ở cấp tỉnh/thành phố; Bảo đảm tính chính xác, đáng tin cậy (các số liệu/thông tin được thu thập và sử dụng để xác định các chỉ thị và chỉ số ĐMST phải có cơ sở khoa học, dựa trên những số liệu thống kê chính thống, do các cơ quan/tổ chức có trách nhiệm thu thập/công bố); Bảo đảm có thể tính toán, đo lường và so sánh được; Việc xác định bộ chỉ số ĐMST và các chỉ thị không đòi hỏi quá tốn kém về tài chính, công sức, thời gian; Bảo đảm được xây dựng và duy trì có hệ thống, sử dụng tối đa công nghệ thông tin trong việc thu thập, xử lý thông tin và bảo đảm khả năng tiếp cận thông tin.  

     Đề xuất 4 trụ cột về ĐMST cấp tỉnh/thành phố

     Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và dựa trên những tiêu chí đề cập ở trên, có thể đề xuất khung bộ chỉ số ĐMST cấp tỉnh/thành phố cho Việt Nam gồm 4 lĩnh vực trụ cột với những nội dung sau:

     Năng lực ĐMST của tỉnh/thành phố được thể hiện ở khả năng củatỉnh/thành phố (qua các bên liên quan) có năng lực (về tài chính và con người) thực hiện những hoạt động ĐMST. Ở đây, bên có liên quan đến ĐMST của tỉnh/thành phố có thể kể đến như: chính quyền địa phương, các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực ĐMST. Năng lực ĐMST của địa phương được thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của địa phương, sự hiện diện của các bên liên quan thực hiện các hoạt động ĐMST; khả năng của các bên liên quan đầu tư và chi tiêu cho các hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, hoạt động ĐMST…

     Môi trường hỗ trợ ĐMST của tỉnh/thành phố có thể được hiểu là việc xây dựng các luật lệ và các chính sách tạo thuận lợi hay khuyến khích các bên liên quan thực hiện các hoạt động ĐMST tại địa phương. Điều này có thể được thể hiện ở các hình thức như quy định, luật lệ của chính quyền địa phương và doanh nghiệp/tổ chức liên quan tới thúc đẩy hoạt động ĐMST; các kế hoạch, chiến lược của địa phương/doanh nghiệp khuyến khích hoạt động ĐMST...

     Các hoạt động ĐMST của tỉnh/thành phố được các bên liên quan thực hiện như hoạt động về sản xuất và tiêu dùng bền vững, việc đạt được các danh hiệu liên quan tới PTBV và ĐMST; các hoạt động cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, hoạt động tăng hiệu quả sử dụng đầu vào cho sản xuất, hoạt động tạo ra những công nghệ, dây chuyền hay sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường...

     Kết quả ĐMST của tỉnh/thành phố thể hiện thông qua kết quả/tác động cuối cùng từ các hoạt động ĐMST của địa phương. Điều này được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng năng lượng và nguồn đầu vào để sản xuất và sinh hoạt của địa phương; lượng khí thải nhà kính mà địa phương thải ra; kết quả xếp hạng của địa phương về PTBV (nếu có); đóng góp của các ngành sử dụng công nghệ xanh, công nghệ thân thiện môi trường vào kinh tế của địa phương; đóng góp việc làm được tạo ra bởi các ngành sản xuất sạch/xanh, thân thiện môi trường...

     Đề xuất khung bộ chỉ số ĐMST và các chỉ thị kèm theo bộ chỉ số ĐMST cấp tỉnh/thành phố

     Đề xuất khung bộ chỉ số

     Tương ứng với 4 trụ cột về ĐMST cấp tỉnh/thành phố sẽ có 4 nhóm chỉ số thành phần, gồm: Chỉ số năng lực ĐMST; Chỉ số môi trường hỗ trợ ĐMST; Chỉ số hoạt động ĐMST và Chỉ số kết quả ĐMST. Dựa trên những nội dung tương ứng với 4 trụ cột của chỉ số ĐMST cấp tỉnh/thành phố, hệ thống văn bản pháp luật và hệ thống thống kê hiện hành, nhóm tác giả đã đề xuất 23 chỉ thị cấu thành (Bảng 1).

     Khung bộ chỉ số về ĐMST cấp tỉnh/thành phố sẽ gồm 4 chỉ số thành phần và 23 chỉ thị cấu thành như trình bày ở sơ đồ 1:

Sơ đồ 1.  Đề xuất Khung bộ chỉ số ĐMST cấp tỉnh/thành phố cho Việt Nam

     Phương pháp tính điểm và xác định trọng số cho Chỉ số ĐMST cấp tỉnh/thành phố

     Chỉ số ĐMST chung cấp tỉnh/thành phố có số điểm tối đa là 100, được xác định từ số điểm đạt được của các chỉ số thành phần hoặc từ số điểm đạt được của các chỉ thị thành phần và trọng số của chúng theo công thức sau:

     PEcoII = EcoICI + EcoIEI + EcoIAI + EcoIPI,

     hoặc

     PEcoII = ∑EcoIi. Wi

     Trong đó:

     PEcoII – là số điểm đạt được của Chỉ số ĐMST chung của tỉnh/thành phố;

     EcoICI – là số điểm đạt được của Chỉ số về năng lực ĐMST; Công thức tính: EcoICI = ∑EcoIi. Wi, trong đó i có giá trị từ 1-7

     EcoIEI – là số điểm đạt được của Chỉ số môi trường hỗ trợ ĐMST; Công thức tính EcoIEI = ∑EcoIi. Wi, trong đó i = từ 8-13

     EcoIAI- là số điểm đạt được của Chỉ số về hoạt động ĐMST; Công thức tính:  EcoIAI = ∑EcoIi. Wi, trong đó i = từ 14-17

     EcoIPI – là số điểm đạt được của Chỉ số về kết quả ĐMST.  Công thức tính:  EcoIPI = ∑EcoIi. Wi, trong đó i = từ 18-23

     i - là các chỉ thị thành phần (theo đó, i có giá trị từ 1 đến 23).

     EcoIi - là điểm đạt được của từng chỉ thị thành phần i.

     W- là trọng số của chỉ thị thành phần I (theo đó, Wi = 1).

     Điểm đạt được của các chỉ thị thành phần được xác định căn cứ vào kết quả thực hiện các chỉ thị đó ở cấp tỉnh/thành phố, kết quả đạt cao nhất/hoặc thấp nhất trong số các tỉnh/thành phố hay kết quả thực hiện cao nhất có thể đạt được của chỉ thị thành phần đó. Mỗi chỉ thị thành phần có thể đạt số điểm cao nhất là 100.

     Bảng 1. Các chỉ thị, cách tính điểm và đề xuất trọng số cho từng chỉ thị thành phần

21 6 23 2

21 6 23 3

21 6 23 4

(Nguồn: Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (2021), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng bộ chỉ số ĐMST (eco innovation index) hướng tới sản xuất và tiêu dùng bền vững cho Việt Nam)

     Xác định trọng số cho các chỉ số và chỉ thị thành phần

     Về nguyên tắc, trọng số của các chỉ số và chỉ thị thành phần của Chỉ số ĐMST chung được xác định căn cứ vào mức độ ưu tiên, tầm quan trọng của các chỉ số và chỉ thị thành phần tạo nên Chỉ số ĐMST của tỉnh/thành phố. Tùy từng giai đoạn và thực tiễn công tác ĐMST của đất nước mà trọng số của các chỉ số và chỉ thị thành phần có thể được điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế.

     Tại thời điểm hiện nay, khi ĐMST mới bắt đầu được chú ý và đang ở giai đoạn sơ khai, sẽ cần chú trọng hơn tới hai chỉ số sinh thái thành phần về năng lực và môi trường hỗ trợ ĐMST. Khi Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội đã có nhận thức cao và triển khai rộng rãi ĐMST thì lúc đó, có thể coi cả 4 chỉ thị thành phần tạo nên Chỉ số ĐMST chung có mức độ quan trọng ngang nhau. Với quan điểm như vậy, trước mắt trọng số cho các chỉ số thành phần và 23 chỉ thị được đề xuất chi tiết như tại Bảng 1 và 2.

      Bảng 2. Trọng số cho các nội dung ĐMST

21 6 23 5

 Kết quả đưa ra được tóm lược nội dung chính trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng bộ chỉ số ĐMST (eco innovation index) hướng tới sản xuất và tiêu dùng bền vững cho Việt Nam” do Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường thực hiện.

     Tóm lại, việc xây dựng và ban hành Bộ chỉ số ĐMST là cần thiết đối với Việt Nam, với việc đề xuất Bộ chỉ số được xây dựng ban đầu với 23 chỉ thị thành phần là phù hợp. Để tiếp tục hoàn thiện, chỉnh sửa, cập nhật cho phù hợp với thực tiễn cần thiết phải tiến hành áp dụng thí điểm cho các tỉnh/thành phố, từ đó làm căn cứ cho việc điều chỉnhcác chỉ thị và trọng số đã đề xuất ở bài viết này.

Vũ Xuân Nguyệt Hồng

Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương

Nguyễn Ngọc Tú

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

 

     Tài liệu tham khảo

     1. ASEIC SMEs Eco-Innovation Center and University College London (2016), Comparing Eco-innovation Indices: ASEM Eco-Innovation Index (ASEI) & Eco-Innovation Scoreboard (Eco-IS).

     2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019), Bộ Chỉ số đánh giá kết quả bảo vệ môi trường của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban hành kèm theo Quyết định số 2782/QĐ-BTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 31/10/2019.

      3. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – PCI. Tại trang web: https://pcivietnam.vn/.  

     4. Hanns Seidel Foundation Office of Vietnam and ASEM SMEs Eco-Innovation Center (ASEIC) (2017),  Eco-innovation and Sustainable Consumption and Production in Vietnam.

     5. http://www.aseic.org/fileupload/pblctn/14913691582228960081.pdf

     6. Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, (2019) Sổ tay hướng dẫn doanh nghiệp nhỏ và vừa: Tiêu chí gắn với tăng trưởng xanh lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo.

     7. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (2021), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng bộ chỉ số ĐMST (eco innovation index) hướng tới sản xuất và tiêu dùng bền vững cho Việt Nam, Dự thảo Báo cáo Tổng hợp đề tài cấp Bộ.

 

NỘI DUNG KHÁC

Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam về áp dụng phương pháp phân tích đánh đổi (trade-offs analysis) trong xây dựng chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên

22-6-2023

 Bài viết trình bày về kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, bài học cho Việt Nam về áp dụng công cụ InVEST trong phân tích đánh đổi (trade-offs analysis) phục vụ xây dựng chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên.

Cơ sở khoa học, xu hướng thế giới và bối cảnh của Việt Nam về thuế các bon

23-6-2023

Định giá các bon đang được xem là cách tiếp cận dựa vào thị trường hứa hẹn nhất thông qua một trong hai công cụ là thị trường giảm phát thải và thuế các bon. Thuế các bon là một loại thuế áp dụng đối với lượng khí các bon phát thải của quá trình đốt cháy nhiên liệu tạo ra khí CO2 - một trong những tác nhân gây ra hiện tượng nóng lên của Trái đất và biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu.

Thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng không (Net zero emission): Kinh nghiệm của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam

26-6-2023

Trong những năm gần đây, cụm từ “phát thải ròng bằng không” hay “net zero emission - NZE” đã trở thành chủ đề quen thuộc tại nhiều diễn đàn về biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững. Năm 2015, Thỏa thuận Paris về BĐKH được 192 quốc gia thông qua, tại điểm 4.1 nhấn mạnh “các bên tham gia hướng đến đỉnh phát thải khí nhà kính (KNK) càng sớm càng tốt… như vậy sẽ đạt được cân bằng giữa các nguồn phát thải và loại bỏ bởi các bể hấp thụ KNK vào giữa thế kỷ 21”.

Đa dạng các hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

27-6-2023

(Theo monre.gov.vn) - Theo dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi có thể nhận bồi thường với nhiều hình thức, như bằng đất, bằng tiền hoặc bằng nhà ở…

Quan hệ giữa chuyển đổi số, quản lý chất thải và kinh tế tuần hoàn

28-6-2023

  Kinh tế tuần hoàn (KTTH) thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính - chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ, hệ quả là tạo ra một lượng phế thải khổng lồ sang mô hình chú trọng việc quản lý, tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín, tránh tạo ra phế thải, giảm tác động xấu đến môi trường.

Các loại hình công nghệ cơ bản sử dụng trong hoạt động điều tra cơ bản, quan trắc và dự báo tài nguyên và môi trường

29-6-2023

Công nghệ đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động điều tra cơ bản (ĐTCB), quan trắc và dự báo (QT&DB) TN&MT.

Mối quan hệ giữa quyền bề mặt với quyền sở hữu, quyền sử dụng đất

30-6-2023

Ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp và Luật Đất đai thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Các cá nhân, tổ chức không có quyền sở hữu đối với đất đai mà chỉ có QSDĐ.

Đề xuất bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất ven biển nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu

3-7-2023

Nhằm thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, tăng cường quản lý đất ven biển, ngày 27/7/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg về việc tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đất đai các dự án ven biển.

Cách tiếp cận của một số quốc gia trong đánh giá thực hiện Quy hoạch môi trường và đề xuất áp dụng cho Việt Nam

5-7-2023

Đánh giá thực hiện quy hoạch đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định sự thành công của quy hoạch, cũng như đối với công tác lập quy hoạch trong tương lai.

Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc quy định và thực hiện quyền bề mặt trong quản lý đất đai

6-7-2023

Trên thế giới, thuật ngữ quyền bề mặt đã ra đời từ khá sớm và được pháp luật của nhiều quốc gia ghi nhận đến ngày nay.

Phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai trong xây dựng quy hoạch tại vùng Tây Nghệ An

11-7-2023

Các hệ sinh thái trong cảnh quan cung cấp một số dịch vụ quan trọng cho con người, chẳng hạn như cung cấp nước, thực phẩm và khả năng chống chịu với khí hậu. Các dịch vụ này được gọi là dịch vụ hệ sinh thái. Việc cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái là kết quả của các quá trình sinh thái phức tạp, với sự đánh đổi không thể tránh khỏi giữa các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau.

Công cụ định giá các-bon tại Việt Nam: Hiện trạng và một số khuyến nghị áp dụng

13-7-2023

 Theo Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương nhất, theo đó, năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, sẽ bị giảm 26% trong trường hợp phát thải cao và giảm 12% đối với kịch bản phát thải thấp. Báo cáo gần đây của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Quỹ châu Á (Asia Foundation), thiệt hại hàng năm do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra ước tính khoảng 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).