ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Cách tiếp cận của một số quốc gia trong đánh giá thực hiện Quy hoạch môi trường và đề xuất áp dụng cho Việt Nam

Ngày đăng: 05 | 07 | 2023

Đánh giá thực hiện quy hoạch đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định sự thành công của quy hoạch, cũng như đối với công tác lập quy hoạch trong tương lai.

   Ở Việt Nam, Quy hoạch BVMT (QHBVMT) quốc gia đã được thể chế hóa trong Luật BVMT năm 2014 và được xác định như một quy hoạch ngành cấp quốc gia theo Luật Quy hoạch 2017. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến Quy hoạch số 35/2018/QH14, QHBVMT được định nghĩa là “sự sắp xếp, phân bố không gian, phân vùng môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, quản lý chất thải, quan trắc, cảnh báo môi trường trên lãnh thổ xác định để BVMT, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước cho thời kỳ xác định”.

    Thực chất, QHBVMT là sự kế thừa, phát triển trên các nguyên lý cơ bản của kiến trúc cảnh quan, sinh thái học, khoa học sức khỏe, khoa học môi trường và nhiều ngành khác; tất cả được tích hợp xoay quanh một trụ cột không thể thiếu là phân vùng môi trường. Trên thực tế, các quy hoạch không gian tương tự gắn với môi trường (quy hoạch môi trường) đã được nghiên cứu và thực hiện thành công ở nhiều quốc gia. Bài báo nhằm phân tích một số tiếp cận trên thế giới trong đánh giá thực hiện quy hoạch môi trường, để từ đó đề xuất một số định hướng và rút ra bài học cho Việt Nam trong bối cảnh QHBVMT quốc gia đang được triển khai xây dựng theo quy định của Luật Quy hoạch 2017.

Cách tiếp cận của một số quốc gia trong đánh giá thực hiện Quy hoạch môi trường

    Qua nghiên cứu cho thấy, cách tiếp cận đánh giá thực hiện quy hoạch dựa trên sự tuân thủ là phổ biến. Trong Quy hoạch phát triển và tái phát triển của bang New Jersey, Mỹ (2001), ngoài quy định cụ thể các tiêu chí được sử dụng trong phân vùng môi trường, Quy hoạch cũng đưa ra bộ chỉ tiêu đánh giá việc thực hiện các mục tiêu trong Quy hoạch. Ví dụ như: 90% diện tích đất được phát triển, 85% sự gia tăng dân số và 90% việc làm mới đến 2020 nằm trong vùng quy hoạch đô thị và vùng lõi; diện tích đất được gìn giữ cho nông nghiệp và khoang gian mở; đến năm 2020, không còn bị mất đất ngập nước do phát triển, 95% các đoạn sông suối có sự sống thủy sinh; 100% quy hoạch địa phương phải tuân thủ quy hoạch tổng thể bang vào năm 2020…

   Ở Trung Quốc, Quy hoạch 5 năm lần thứ XIII (giai đoạn 2016 - 2020) sử dụng cách tiếp cận phân vùng chức năng đã đưa ra bộ tiêu chí để đánh giá việc thực hiện Quy hoạch, bao gồm: Các nhóm tiêu chí về chất lượng môi trường không khí; chất lượng môi trường nước; chất lượng môi trường đất; điều kiện môi trường sinh thái; giảm phát thải các chất gây ô nhiễm chính; giảm tổng lượng phát thải từng vùng; tỷ lệ các loài động thực vật quan trọng được bảo vệ; tỷ lệ đường bờ biển tự nhiên được gìn giữ; đất sa mạc hóa được quản lý; diện tích đất xói mòn được kiểm soát.

    Tại Ba Lan, Chính phủ đã ban hành Định hướng phát triển không gian quốc gia 2030 (NSDC 2030). Đây là văn bản quốc gia mang tính chiến lược quan trọng nhất của Ba Lan về quản lý quy hoạch không gian trong 20 năm tới. Để giám sát và đánh giá việc thực hiện Quy hoạch, Định hướng cũng đã ban hành bộ chỉ thị, cũng như các bản đồ là cơ sở để giám sát có hệ thống các tác động của các biện pháp phát triển không gian được thực hiện theo các chính sách công khác nhau ở các cấp (quốc gia, khu vực, địa phương). Trong đó, bộ chỉ thị đánh giá và giám sát việc thực hiện chính sách, bao gồm các chỉ thị duy trì chất lượng môi trường. Kết quả sẽ làm cơ sở để cập nhật, hoặc sửa đổi NSDC.

    Đối với cách tiếp cận dựa trên thực tiễn, tiêu biểu là văn bản Quan điểm Phát triển không gian châu Âu (ESDP) được Liên minh châu ÂU (EU) công bố vào năm 1999. Văn bản đã xác định 3 định hướng quan trọng cho Quy hoạch không gian của EU là xây dựng hệ thống đô thị cân đối, nhiều tâm, tăng cường hợp tác giữa thành thị với nông thôn; thúc đẩy sự thống nhất toàn vùng trong giao thông và truyền thông, nhằm đảm bảo tiếp cận bình đẳng đối với cơ sở vật chất, kiến thức; phát triển bền vững, sử dụng khôn khéo và bảo tồn các di sản tự nhiên và văn hóa, nhằm duy trì sự đa dạng văn hóa, bản sắc khu vực. Đồng thời, Văn bản đã đưa ra 60 khuyến nghị chính sách để đạt được các mục tiêu trên. Văn bản không mang tính bắt buộc, các quốc gia EU được khuyến nghị áp dụng khi xây dựng chính sách cấp quốc gia và đa quốc gia. Faludi (2006) đã chỉ ra rằng, các nguyên tắc nêu ra trong ESDP đã được lồng ghép vào chính sách quy hoạch không gian của các quốc gia EU ở nhiều mức độ khác nhau, cũng như các chương trình cấp EU, trong đó có INTERREG (là một chuỗi các chương trình được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khu vực châu Âu nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa các khu vực trong EU để hướng tới phát triển bền vững).

Đề xuất khả năng áp dụng cho Việt Nam trong đánh giá thực hiện QHBVMT quốc gia

    Qua nghiên cứu và phân tích các tiếp cận trên thế giới về đánh giá thực hiện quy hoạch cho thấy, việc đánh giá quy hoạch dựa trên sự tuân thủ, hay cách tiếp cận lý tính là cần thiết. Theo đó, QHBVMT cần xác định các mục tiêu cần đạt được, đưa ra chỉ thị đo lường các mục tiêu đó và đặt ra cột mốc cho từng giai đoạn thực hiện. Các mục tiêu của QHBVMT không chỉ bao gồm các sản phẩm đầu ra, hay các kết quả trực tiếp của những dự án (ví dụ: thay đổi về công tác quản lý rừng, quản lý chất thải…), mà còn phải tính đến các tác động lâu dài của QHBVMT. Đó là sự thay đổi mang tính hệ thống, phản ánh được nhận thức về mối quan hệ sâu sắc giữa con người và môi trường tự nhiên như thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu sử dụng đất theo hướng bền vững; thay đổi về ý thức của người dân, doanh nghiệp trong các khu vực cần được quản lý nghiêm ngặt về môi trường…

    Bên cạnh đó, việc đánh giá quy hoạch dựa trên thực tiễn cũng là cần thiết. Theo Luật Quy hoạch 2017, QHBVMT quốc gia là quy hoạch ngành quốc gia, có một vị trí đặc thù trong hệ thống quy hoạch. Việc thực hiện QHBVMT quốc gia yêu cầu phải cụ thể hóa các nguyên tắc của QHBVMT quốc gia vào các quy hoạch địa phương. Bên cạnh đó, QHBVMT quốc gia còn có sự gắn bó mật thiết về bản chất với nhiều quy hoạch ngành khác như quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học… Vì vậy, QHBVMT quốc gia cần phải được xây dựng một cách linh hoạt, có cơ chế cho phép điều chỉnh phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn.

 Hoàng Hồng Hạnh, Trần Quý Trung, Nguyễn Thế Thông

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

NỘI DUNG KHÁC

Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc quy định và thực hiện quyền bề mặt trong quản lý đất đai

6-7-2023

Trên thế giới, thuật ngữ quyền bề mặt đã ra đời từ khá sớm và được pháp luật của nhiều quốc gia ghi nhận đến ngày nay.

Phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai trong xây dựng quy hoạch tại vùng Tây Nghệ An

11-7-2023

Các hệ sinh thái trong cảnh quan cung cấp một số dịch vụ quan trọng cho con người, chẳng hạn như cung cấp nước, thực phẩm và khả năng chống chịu với khí hậu. Các dịch vụ này được gọi là dịch vụ hệ sinh thái. Việc cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái là kết quả của các quá trình sinh thái phức tạp, với sự đánh đổi không thể tránh khỏi giữa các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau.

Công cụ định giá các-bon tại Việt Nam: Hiện trạng và một số khuyến nghị áp dụng

13-7-2023

 Theo Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương nhất, theo đó, năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, sẽ bị giảm 26% trong trường hợp phát thải cao và giảm 12% đối với kịch bản phát thải thấp. Báo cáo gần đây của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Quỹ châu Á (Asia Foundation), thiệt hại hàng năm do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra ước tính khoảng 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Đánh giá dịch vụ hệ sinh thái với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam

18-7-2023

Bài viết nêu bật đặc trưng của hệ sinh thái Việt Nam, sự suy giảm dịch vụ hệ sinh thái và nguyên nhân dẫn đến suy giảm, những dịch vụ cơ bản mà hệ sinh thái đem lại cho phát triển kinh tế - xã hội, sự cần thiết phải đánh giá dịch vụ hệ sinh thái.

Thực hiện kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam: Từ cơ sở lý luận đến xác lập chính sách

19-7-2023

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính (line economy) sang mô hình kinh tế tuần hoàn (circular economy) là một chủ trương lớn của Đảng đã được thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và được quy định tại Điều 142 của Luật BVMT năm 2020, đồng thời được cụ thể hóa tại Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ. Đồng thời, cùng với thực hiện quy định của pháp luật, quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch các tỉnh cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nội dung kinh tế tuần hoàn (KTTH) cũng đã được lồng ghép trong các quy hoạch này. Từ quy hoạch có thể thấy, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH là nội dung cần được triển khai sớm trong thực tiễn thời gian tới.

Áp dụng kinh tế tuần hoàn trong ngành nhựa ở Việt Nam

20-7-2023

Ô nhiễm nhựa hiện nay là một thách thức lớn ở cả cấp độ toàn cầu cũng như với từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế tuần hoàn (KTTH) ngày càng được chú trọng phát triển, việc áp dụng KTTH trong lĩnh vực nhựa có tiềm năng đem tới nhiều lợi ích, bao gồm giảm ô nhiễm trên đất liền và trên biển, giảm phát thải khí nhà kính, tạo sinh kế xanh, tiết kiệm cho ngân sách và các doanh nghiệp. Đã có nhiều mô hình KTTH trong lĩnh vực nhựa được áp dụng trên thế giới, cùng với một số mô hình tiên phong ở Việt Nam đem lại hiệu quả. Việc phát triển KTTH trong thời gian tới cần chú trọng nghiên cứu, đổi mới cách tiếp cận, công nghệ, giải pháp, trên cơ sở phân tích lộ trình phù hợp.

Mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn trên thế giới và bài học cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

27-7-2023

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu hướng của các quốc gia, nhất là khi nguồn tài nguyên trên thế giới ngày càng cạn kiệt, bởi giúp giải quyết bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường. Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một chu trình sản xuất khép kín, các tài nguyên, chất thải của quá trình sản xuất trước được tận dụng lại hoặc tái sử dụng, các dòng phế liệu được biến thành đầu vào của chu trình sản xuất mới. Bài viết này dựa trên nguồn dữ  liệu thứ cấp đã đề cập đến lợi ích của KTTH và một số mô hình phát triển KTTH điển hình trên thế giới để rút ra một số bài học cho Việt Nam nhằm phát triển một nền kinh tế đảm bảo hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, tăng trưởng kinh tế song hành với giảm tải tác hại biến đổi khí hậu.

Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam về xây dựng danh mục phân loại xanh hỗ trợ cho thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh

27-7-2023

 Phát triển thị trường tín dụng xanh (TDX), trái phiếu xanh (TPX) đang là xu hướng nổi lên mạnh mẽ ở phạm vi toàn cầu với sự tham gia ngày càng nhiều các quốc gia phát triển cũng như các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)...  Hai kênh huy động vốn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về môi trường, khí hậu. Ở Việt Nam, ngay từ khi Nghị quyết số 41-NQ/TW năm 2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đưa ra nhiệm vụ “Phát triển các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng về môi trường nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư BVMT”. Trong khoảng 10 năm gần đây, nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các Bộ, ngành cũng đặt ra mục tiêu phát triển tài chính xanh, TDX, TPX. Tuy vậy, dưới góc độ pháp luật thì trước khi Luật BVMT năm 2020 được ban hành, hành lang pháp lý để hỗ trợ cho hai kênh tài chính này lại hết sức thiếu hụt, không đồng bộ.

Đề xuất một số nội dung về quyền bề mặt trong sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013

28-7-2023

Là một vật quyền phái sinh sau quyền sử dụng đất, luôn đi cùng với quyền sử dụng đất, quyền bề mặt không chỉ được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự mà còn cần phải được thể hiện trong Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Để đảm bảo cho quyền bề mặt được thi hành trên thực tế, phát huy cao nhất giá trị của nó thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 cần chú ý hoàn thiện một số nội dung liên quan đến quyền bề mặt.

Công cụ thuế, phí trong thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc

31-7-2023

Quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, lấy sản xuất công nghiệp, dựa vào đầu tư và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên làm hướng đi cho nền kinh tế khiến cho Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức về ô nhiễm môi trường và kéo theo nhiều hệ lụy đối với tự nhiên (hiện tượng sa mạc hóa, cạn kiệt nguồn nước, suy thoái và mất đa dạng sinh học). Trước những áp lực đó, kinh tế tuần hoàn (KTTH) nổi lên như một công cụ hữu hiệu, đem lại những hiệu quả tích cực đối với tiến trình phát triển bền vững của quốc gia này. Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng và ban hành những chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy, khuyến khích tổ chức, cá nhân triển khai, áp dụng KTTH, một trong số đó là các chính sách áp dụng công cụ thuế, phí. Dựa trên kết quả rà soát, nghiên cứu quá trình thực hiện KTTH ở Trung Quốc cũng như phân tích các công cụ thuế, phí mà quốc gia này áp dụng, đối chiếu với thực tiễn ở Việt Nam, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị với công cụ thuế, phí để phù hợp với quá trình hiện thực hóa KTTH ở Việt Nam.

Cơ sở lý luận về huy động nguồn lực của khu vực tư nhân trong hoạt động giảm phát thải khí nhà kính

2-8-2023

Hiện nay, Biến đổi khí hậu (BĐKH) được coi là một trong những  mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với nhân loại, tác động tới mọi mặt kinh  tế, xã hội và môi trường. Trong đó, Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đã xác định nguyên nhân chủ yếu của BĐKH toàn  cầu là do phát thải khí nhà kính (KNK) của con người. Đặc biệt, xu hướng gia tăng khí thải có khả năng sẽ dẫn đến BĐKH ở mức nguy hiểm.

Các yếu tố ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường  làng nghề Việt Nam

4-8-2023

Để cải thiện ô nhiễm môi trường ở các làng nghề một cách căn cơ, đòi hỏi sự nỗ lực vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, nhất là chính quyền cơ sở và bản thân người dân các làng nghề. Theo đó, công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề phải được quan tâm chú trọng và đầu tư đúng mức, đặc biệt là đối với những làng nghề ô nhiễm và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường làng nghề hiện nay là một bước quan trọng nhằm góp phần đề xuất và thực thi giải pháp phù hợp, hiệu quả trong công cuộc bảo vệ môi trường ở các làng nghề Việt Nam.