ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai trong xây dựng quy hoạch tại vùng Tây Nghệ An

Ngày đăng: 11 | 07 | 2023

Các hệ sinh thái trong cảnh quan cung cấp một số dịch vụ quan trọng cho con người, chẳng hạn như cung cấp nước, thực phẩm và khả năng chống chịu với khí hậu. Các dịch vụ này được gọi là dịch vụ hệ sinh thái. Việc cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái là kết quả của các quá trình sinh thái phức tạp, với sự đánh đổi không thể tránh khỏi giữa các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau.

     Sự đánh đổi giữa các dịch vụ hệ sinh thái là tình huống đòi hỏi những nhà quản lý phải đưa ra quyết định lựa chọn một trong các dịch vụ để bảo đảm sự phát triển hoặc trao đổi lợi ích giữa các dịch vụ nhằm có được kết quả tối ưu nhất. Phương pháp phân tích đánh đổi (trade-offs analysis) là một công cụ hữu ích trong việc tính toán, phân tích những điểm được/mất tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu gắn kết với bản đồ, nhằm đưa ra phương án tối ưu được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước phát triển. Việc áp dụng phương pháp phân tích đánh đổi vào lĩnh vực quy hoạch sẽ giúp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thiết kế, là công cụ đắc lực cho các ban, ngành, địa phương trong việc quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch. Bài báo trình bày về phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai trong xây dựng quy hoạch vùng, nghiên cứu trường hợp cho vùng Tây Nghệ An.

1. Đặc điểm tự nhiên của vùng Tây Nghệ An

    Vùng Tây Nghệ An nằm hoàn toàn trong Khu dự trữ sinh quyển thế giới vùng Tây Nghệ An với tổng diện tích là 1.298.136 ha và bao gồm 9 đơn vị hành chính cấp huyện: Con Cuông, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Anh Sơn, Kỳ Sơn, Thanh Chương, Tân Kỳ và Tương Dương.

    Vùng có vị trí đặc biệt quan trọng, có đường biên giới với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở phía Tây, Tây Bắc, có ranh giới giáp với tỉnh Thanh Hóa ở phía Bắc và Hà Tĩnh ở phía Nam. Vùng cũng có 02 Khu Bảo tồn thiên nhiên (Pù Huống, Phù Hoạt) và Vườn Quốc gia Pù Mát thuộc Khu dự trữ sinh quyển thế giới miền Tây Nghệ An với tổng diện tích 168.301ha.

    Vùng Tây Nghệ An là khu vực duy nhất của miền Bắc còn lại một diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt, đặc biệt là khu vực dọc biên giới Việt Lào. Thực vật có khoảng 3.961 loài, trong đó khoảng 3.019 loài thực vật có mạch; có 942 loài động vật có xương sống lớn nhỏ đã được ghi nhận, trong đó động vật nguy cấp, quý hiếm có 25 loài thuộc Sách đỏ Việt Nam 2007; 23 loài Sách Đỏ IUCN 2013; 25 loài CITES 2006. Thực vật nguy cấp, quý hiếm có 9 loài thuộc Sách đỏ Việt Nam 2007; 9 loài Sách Đỏ IUCN 2013; 3 loài CITES 2006 một số loài như Thông đỏ, Sao Hải nam, Trắc, Nghiến….

2. Quy trình lập bản đồ các dịch vụ hệ sinh thái theo Bộ công cụ InVEST

    Việc cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái là kết quả của các quá trình sinh thái phức tạp, với sự đánh đổi không thể tránh khỏi giữa các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau. Do đó, sự hiểu biết sâu sắc và xác định đặc điểm chính xác của sự đánh đổi giữa các dịch vụ hệ sinh thái dựa trên nền tảng khoa học để thực hiện mục tiêu kép: vừa nâng cao chất lượng sống của con người cũng như đảm bảo sự phát triển các hệ sinh thái một cách bền vững. Sự đánh đổi giữa các dịch vụ hệ sinh thái là tình huống đòi hỏi những nhà quản lý phải đưa ra quyết định lựa chọn một trong các dịch vụ để bảo đảm sự phát triển hoặc trao đổi lợi ích giữa các dịch vụ nhằm có được kết quả tối ưu nhất.

    Trong số các công cụ đang được nghiên cứu, sử dụng hiện nay, Bộ công cụ InVEST của Dự án vốn tự nhiên (Natural capital project) do UNEP và các tổ chức quốc tế tài trợ kết hợp với hệ thống thông tin địa lý (GIS) được đánh giá có tính ứng dụng cao, phù hợp với điều kiện thực tiễn cả về hiện trạng cũng như số liệu đầu vào/đầu ra tại khu vực dự kiến thử nghiệm và đã ứng dụng thành công tại các quốc gia trên thế giới.

    Theo đó, InVEST là một công cụ để khám phá những thay đổi trong hệ sinh thái có khả năng dẫn đến những thay đổi về lợi ích như thế nào đối với con người và thường sử dụng phương pháp tiếp cận chức năng sản xuất để định lượng và định giá các dịch vụ hệ sinh thái. Hàm sản xuất xác định đầu ra của các dịch vụ hệ sinh thái do môi trường cung cấp với điều kiện và quy trình riêng biệt. Khi một chức năng sản xuất được xác định, chúng ta có thể định lượng tác động của những thay đổi trên đất hoặc trong nước đối với những thay đổi về mức sản lượng dịch vụ hệ sinh thái.

     Bộ công cụ InVEST bao gồm các mô hình để định lượng, lập bản đồ và đánh giá các lợi ích do các hệ thống trên cạn, nước ngọt và biển mang lại với bốn danh mục chính: 1) dịch vụ hỗ trợ, 2) dịch vụ cuối cùng, 3) công cụ hỗ trợ phân tích dịch vụ hệ sinh thái và 4) công cụ hỗ trợ (RouteDEM;  DelineateIT; Quy trình tạo lập kịch bản và Quy trình tạo lập kịch bản: Dựa trên vùng phụ cận). Các công cụ hỗ trợ bao gồm giúp tạo lưu vực, xử lý thủy văn trên mô hình độ cao kỹ thuật số và tạo các kịch bản có thể được sử dụng làm đầu vào cho InVEST. Quy trình thực hiện và danh mục các thành phần trong mô hình InVEST được trình bày trong Hình 1.

4 7 23 1

Hình 1. Quy trình thực hiện để lập bản đồ các dịch vụ hệ sinh thái trong mô hình InVEST và danh mục các thành phần mô hình trong hệ thống công cụ InVEST

Nguồn:https://storage.googleapis.com/releases.naturalcapitalproject.org/invest-userguide/latest/index.html

    Đối với việc xây dựng quy hoạch có liên quan đến sử dụng đất, bộ công cụ có thể hỗ trợ xây dựng kịch bản và thực hiện các kế hoạch sử dụng đất bằng cách khoanh định các khu vực quan trọng đối với việc cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái. Quy hoạch không gian, quy hoạch sử dụng đất hay quy hoạch tích hợp có tính đến phân bổ đất đai đều đòi hỏi nguồn thông tin, dữ liệu phong phú cũng như tác động không nhỏ đến trục tam giác kinh tế - xã hội – môi trường. Do đó, những dữ liệu về chất lượng, khả năng cung cấp dịch vụ hệ sinh thái từ InVEST sẽ là đầu vào quan trọng để đánh giá thực trạng, phân tích đánh đổi (được/mất) trong mỗi kịch bản và dự báo những khu vực cần ưu tiên phát triển/bảo tồn đối với hệ sinh thái nhằm tối ưu hóa mục tiêu phát triển trong tương lai. Các kết quả đầu ra InVEST được định lượng rõ ràng về mặt không gian cho phép các bên có trách nhiệm lập quy hoạch tính toán hiệu quả cả các ưu tiên phát triển và bảo tồn.

3. Kết quả phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai trong xây dựng quy hoạch tại vùng Tây Nghệ An

3.1. Danh mục kịch bản phát triển vùng Tây Nghệ An giai đoạn 2021 – 2030

    Căn cứ vào dự thảo Quy hoạch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 xin ý kiến các Bộ, ngành địa phương và dữ liệu hiện có, nhóm nghiên cứu lựa chọn 02 phương án quy hoạch tương ứng với 02 kịch bản phát triển:

Kịch bản 1: Tiếp tục thực hiện như hiện nay, không có sự điều chỉnh quy hoạch phát triển trong tương lai

    Khi không có sự điều chỉnh quy hoạch phát triển trong tương lai, các tỉnh trên địa bàn Vùng sẽ triển khai thực hiện các chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển đã được phê duyệt. Với kịch bản này, hiện trạng và cơ cấu sử dụng đất đối với từng loại hình sử dụng đất sẽ tiếp tục được duy trì như năm 2020, cụ thể như sau:

Bảng 1. Chỉ tiêu sử dụng đất theo kịch bản số 1

4 7 23 2

        Khi không thực hiện điều chỉnh quy hoạch theo định hướng phát triển của các ngành, môi trường đất chủ yếu bị biến đổi trên phạm vi tỉnh Nghệ An, các khu vực phụ cận hầu như ít bị tác động. Quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khai thác tài nguyên sẽ là những hoạt động chủ yếu gây biến đổi môi trường sinh thái đất.

        Về nông nghiệp, theo định hướng diện tích đất nông nghiệp trong tỉnh sẽ chuyển dịch cơ cấu tăng tỷ trọng chăn nuôi, những vùng có khả năng trồng lúa tăng cường đầu tư trồng các giống lúa cao sản, dẫn đến việc tăng cường sử dụng các loại phân bón vô cơ và các loại thuốc bảo vệ thực vật nhằm nâng cao năng suất, dẫn đến nguy cơ tồn lưu và làm cho chất lượng đất thay đổi, khả năng phục hồi chậm, dễ bị thoái hóa đất. Về thủy sản, các tác động đến môi trường đất bao gồm nguy cơ suy thoái môi trường đất do đào ao, dẫn nước mặn vào để nuôi thủy sản đã gián tiếp gây nhiễm mặn, nhiễm phèn đất. Nguy cơ giảm một số diện tích đất ngập nước, đất đầm lầy do quy hoạch để nuôi tôm công nghiệp.

        Kịch bản 2: Lựa chọn theo kịch bản phát triển của tỉnh Nghệ An, đã được UBND Tỉnh đề xuất  (kịch bản tăng trưởng nhanh) giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050

      Kịch bản số 2 được xây dựng trên cơ sở bối cảnh về kinh tế - xã hội thế giới và trong nước, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An nói chung và vùng Tây Nghệ An nói riêng. Kịch bản cũng đã được tham vấn chuyên gia và được lựa chọn trong số 03 kịch bản phát triển kinh tế - xã hội.

Bảng 2. Chỉ tiêu sử dụng đất theo kịch bản số 2

4 7 23 3

So với kịch bản số 1, điều dễ nhận thấy ở kịch bản số 2 là việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang đất phi nông nghiệp khoảng 23.549 ha và đưa khoảng 1.455 ha đất vào sử dụng. Trong đó, diện tích đất ưu tiên cho phát triển hạ tầng là khoảng 37.200 ha và đất ở (tại nông thôn, đô thị) là khoảng 12.865 ha.

4 7 23 4

Hình 2. Bản đồ sử dụng đất theo kịch bản phát triển số 1 (năm 2020) và số 2 (năm 2030)

Nguồn: Nhóm tác giả (2022)

3.2. Quy trình thực hiện phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai trong xây dựng quy hoạch tại vùng Tây Nghệ An

    Trong bài báo này, nhóm nghiên cứu lựa chọn 02 dịch vụ để phân tích đánh đổi là dịch vụ lưu trữ, hấp thụ carbon và dịch vụ điều tiết nước do đặc điểm điều kiện của vùng Tây Nghệ An có diện tích rừng tương đối lớn (bao gồm  Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Phù Hoạt và Vườn Quốc gia Pù Mát ) với tổng diện tích hơn 1 triệu ha (chiếm 83,41%) diện tích của Vùng. Giai đoạn từ nay đến 2030, dự kiến sẽ có khoảng 19.506 ha đất rừng được chuyển sang mục đích khác, điều này đã đặt ra yêu cầu cần phải đánh giá kỹ lưỡng tác động của việc chuyển đổi này đến kinh tế, môi trường sống, đa dạng sinh học cũng như sinh thái của vùng. Đối với dịch vụ điều tiết nước, vùng phía Tây Nghệ An là địa bàn tập trung hầu hết các thủy điện nhỏ của tỉnh do địa hình chủ yếu là đồi, núi và có sông Cả với chiều dài 375 km cùng diện tích lưu vực là 17.730 km2.  Hiện nay, tổng số thủy điện đã được phê duyệt là 31 dự án với tổng công suất là 1.360,95 MW, với 19 dự án đã được phát điện và từ nay đến năm 2030 sẽ tiếp tục hoàn thiện, đưa vào khai thác 12 thủy điện (cụ thể trong phần phụ lục). Điều này sẽ đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân trong vùng nhưng cũng sẽ phát sinh những hệ lụy về môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu cho hệ sinh thái.

4 7 23 5

Hình 3. Quy trình phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái và chất lượng cảnh quan phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai tại vùng Tây Nghệ An

Nguồn: Tập thể tác giả (2022)

    Theo đó, dựa trên kết quả định lượng dịch vụ lưu trữ và hấp thụ các bon và điều tiết nước cũng như đánh giá những tác động của các nguồn nguy hại đến chất lượng môi trường sống của vùng Tây Nghệ An, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích đánh đổi giữa 2 kịch bản phát triển. Từ kết quả đó, nhóm sẽ đề xuất lựa chọn kịch bản và một số kiến nghị, giải pháp trong quá trình thực hiện quy hoạch cho vùng, nhằm giải quyết được mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội với các mục tiêu tổng hợp về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu cho vùng Tây Nghệ An.

Bảng 3. Mô tả công cụ phân tích đánh đổi và đánh giá chất lượng môi trường sống

4 7 23 6

Nguồn: https://naturalcapitalproject.stanford.edu/

3.3. Kết quả phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai cho vùng Tây Nghệ An

a) Kết quả phân tích đánh đổi dịch vụ lưu trữ và hấp thụ carbon

    Dựa trên việc phân tích khả năng lưu trữ và hấp thụ carbon tại 02 kịch bản, nhóm nghiên cứu đã tiến hành lập bản đồ dịch vụ và tính toán được lượng carbon được lưu trữ trên toàn bộ vùng Tây Nghệ An như sau:

* Kịch bản 1: Tổng lượng carbon lưu trữ và hấp thụ của vùng Tây Nghệ An theo kịch bản 1 là khoảng 352.174.799 tấn, bao gồm lượng carbon lưu trữ, dự trữ trên đất, dự trữ dưới đất và lượng carbon lưu trữ bị mất đi (giá trị carbon đối với từng loại hình sử dụng đất sẽ được trình bày cụ thể được trình bày tại phụ lục). Lượng carbon chủ yếu phân bổ xung quanh khu vực có diện tích rừng lớn thuộc Vườn Quốc gia Pù Mát với diện tích 91.113 ha, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống với diện tích 50.000 ha với nhiều nét điển hình của thảm thực vật Việt Nam, với hơn 150 họ, 500 chi và gần 1000 loài cây thân gỗ, chưa kể đến các loại cây thân thảo, thân leo và tầng thấp.

*Kịch bản 2: Tổng lượng carbon lưu trữ và hấp thụ của vùng Tây Nghệ An theo kịch bản số 2 là khoảng 350.360.038 tấn/năm, bao gồm lượng carbon lưu trữ, dự trữ trên đất, dự trữ dưới đất và lượng carbon lưu trữ bị mất đi (giá trị carbon đối với từng loại hình sử dụng đất sẽ được trình bày cụ thể được trình bày tại phụ lục). Theo đó, có khoảng 19.506 ha diện tích rừng (18.896 ha rừng sản xuất, 33 ha rừng đặc dụng và 577 ha rừng phòng hộ) sẽ bị chuyển sang mục đích khác. Do vậy, lượng carbon bị mất đi nếu thực hiện  kịch bản này là khoảng 1.814.761 tấn. Bản đồ định lượng carbon được hấp thụ và lưu trữ theo kịch bản số 1 và 2 được trình bày như sau:

4 7 23 7

Hình 4. Bản đồ dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon theo 2 kịch bản

Nguồn: Kết quả chạy mô hình InVest - Carbon Storage and Sequestration, 2022

b) Kết quả phân tích đánh đổi dịch vụ điều tiết nước

* Kịch bản 1: Vùng Tây Nghệ An có dòng sông Cả  với những con sông trực thuộc như dòng Chính sông Cả, sông Giăng và nhiều suối (với mật độ sông suối đạt 0,6 km/km2); các sông suối đổ vào dòng chính của sông Cả với đặc điểm là ngắn và dốc nên được đánh giá là nơi có tiềm năng phát triển thủy điện rất lớn. Chính vì vậy, khu sinh quyển miền Tây Nghệ An nói chung, Vườn quốc gia Pù Mát nói riêng được đánh giá là có chức năng quan trọng để điều tiết nguồn nước cho các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là cho các hồ chứa và nhà máy thủy điện, điều tiết nước cho các hoạt động dân sinh, nông nghiệp. Tổng sản lượng nước được cung cấp trong vùng theo kịch bản 1 là khoảng 1.113.034.114 m3/năm. Lượng nước này được phân bổ cho nhiều mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu là đầu vào cho 19 thủy điện hiện nay đang hoạt động.

*Kịch bản 2: Tổng sản lượng nước được được cung cấp trong vùng theo kịch bản 2 là khoảng 1.114.627.225 m3/năm, tăng khoảng 1.593.111 m3/năm so với kịch bản 1. Điều này là phù hợp với việc xây dựng thêm một số thủy điện nhỏ nhằm tận dụng tiềm năng về mặt năng lượng của vùng. Bản đồ của cả 2 kịch bản đều đã thể hiện một số thủy điện được phân bổ dọc sông Cả, sông Giăng và đóng vai trò quan trọng trong đóng góp vào sản lượng nước hàng năm của vùng.

 

4 7 23 8

Hình 5. Bản đồ dịch vụ điều tiết nước theo 2 kịch bản

Nguồn: Kết quả chạy mô hình InVest - Annual Water Yield, 2022

c) Kết quả đánh giá chất lượng môi trường sống tại vùng Tây Nghệ An

    Trên cơ sở phân tích các khả năng có thể xảy ra đối với các mối nguy hại đến chất lượng môi trường sống tại Vùng Tây Nghệ An trong 2 kịch bản phát triển, nhóm nghiên cứu tiến hành sử dụng công cụ InVEST trong tính toán, đánh giá chất lượng môi trường sống do tác động tổng hợp của các nguồn được trình bày như sau:

4 7 23 9

 

Hình 6. Chất lượng môi trường sống tự nhiên của 2 kịch bản

Nguồn: Kết quả chạy mô hình InVest về habitat quality, 2022

*Ghi Chú: Chất lượng môi trường sống rất thấp (0-0.2), thấp (0.2-0.4), trung bình (0.4-0.6), cao (0.6-0.8), rất cao (0.8-1)

    Đối với kịch bản số 2, dự kiến trong giai đọan này các huyện trong vùng sẽ chuyển mục đích sử dụng 24.547 ha từ đất nông – lâm nghiệp sang đất phi nông nghiệp với nhiều hoạt động phát triển kinh tế như xây dựng cụm, điểm công nghiệp dọc tuyến tỉnh lộ 553, 534 đi qua các huyện Anh Sơn, Thanh Chương; xây mới 12 thủy điện (đang xây dựng 6 thủy điện có tổng công suất 92 MW và đưa vào quy hoạch 6 thủy điện với tổng công suất khoảng 348 MW); đẩy mạnh phát triển công nghiệp khai khoáng, du lịch sinh thái….Trước những áp lực về phát triển kinh tế, xã hội và dân sinh, thời gian qua chất lượng môi trường sống trên địa bàn của Vùng bị tác động nhiều. Bằng việc áp dụng phương pháp phân tích đánh đổi của mô hình InVest về chất lượng môi trường sống, kết quả cho thấy diễn biến chất lượng môi trường đang có xu hướng giảm mạnh, đặc biệt là ở các khu vực tập trung nhiều hoạt động dân cư, hoạt động kinh tế (phần màu đỏ tương ứng với chất lượng môi trường sống thấp do chịu tác động mạnh bởi các nguồn nguy hại có xu hướng mở rộng, đặc biệt tại khu vực phía Đông, trung tâm các huyện Qùy Hợp, Tân Kỳ và Thanh Chương).

3.4. Phân tích đánh đổi và một số khuyến nghị theo hướng điều tiết, sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai trong quy hoạch vùng Tây Nghệ An

    Qua quá trình áp dụng công cụ InVEST trong lập bản đồ dịch vụ lưu trữ - hấp thụ carbon, điều tiết nước và đánh giá chất lượng môi trường sống tại địa bản vùng Tây Nghệ An, nhóm nghiên cứu nhận thấy cả 2 kịch bản phát triển đều có những lợi thế nhất định trong việc đảm bảo chất lượng môi trường cũng như phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu về mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021 - 2025 theo Nghị quyết đại hội XIV của Đảng bộ Tỉnh và Nghị quyết 18/2020/HĐND tỉnh Nghệ An là 9,5-10,5%, GDP bình quân đầu người đạt 3.295 USD vào năm 2025, nhóm nghiên cứu thấy rằng việc thực hiện kịch bản 2 (kịch bản tăng trưởng nhanh đã được UBND Tỉnh đề xuất  (kịch bản tăng trưởng nhanh) giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050) là tương đối phù hợp. Tuy nhiên, kết quả từ công cụ InVEST cũng đã dự báo được những thách thức đối với vùng Tây Nghệ An trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất phục vụ mục tiêu phát triển.

Bảng 4. Kết quả phân tích đánh đổi giữa 2 kịch bản phát triển

4 7 23 10

Nguồn: Kết quả chạy mô hình InVest, 2022

    Đối với dịch vụ lưu trữ và hấp thụ carbon, nếu được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận việc thực hiện theo kịch bản phát triển số 2, các địa phương trong vùng sẽ phải hy sinh khoảng 1,8 triệu tấn carbon được lưu trữ và hấp thụ và một lượng tương ứng sẽ được thải ra môi trường xung quanh. Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc chuyển mục đích sử dụng hơn 19 nghìn ha đất rừng sang hoạt động khác.

    Đối với dịch vụ điều tiết nước, kịch bản 2 cũng góp phần giúp cho sản lượng nước trong toàn khu vực tăng khoảng 1,5 triệu m3/năm. Dự kiến một phần lượng nước này sẽ được lưu trữ trong các hồ chứa của 12 thủy điện được xây dựng mới trong giai đoạn 2021 - 2030.

    Đối với chất lượng môi trường sống, mặc dù giữa 2 kịch bản không có quá nhiều sự thay đổi, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa kết hợp xây dựn cơ sở hạ tầng đã khiến cho diễn biến chất lượng môi trường đang có xu hướng giảm mạnh nếu thực hiện kịch bản số 2.

4. Lựa chọn kịch bản và một số khuyến nghị chính sách

    Như vậy, để việc thực hiện kịch bản phát triển số 2 vừa đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, vừa kết hợp hài hòa bảo tồn và khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên sinh vật với việc xóa đói, giảm nghèo, chú trọng khai thác giá trị dịch vụ sinh thái môi trường, cảnh quan đa dạng sinh học của vùng Tây Nghệ An, chính quyền tỉnh Nghệ An và các huyện trong vùng cần chú trọng vào một số giải pháp như sau:

- Đối với quy hoạch vùng Tây Nghệ An, với đặc thù là nằm trong khu dự trữ sinh quyển đã được UNESCO công nhận, chính quyền địa phương phải quản lý, khoanh định và phân bổ nguồn lực đất đai, bố trí không gian sử dụng đất theo các khu vực đặc thù trên cơ sở đảm bảo “hai tiêu chí” (tiêu chí tính giới hạn, tiêu chí tính triển vọng); “ba ranh giới” (ranh giới nghiêm ngặt bảo vệ, bảo tồn; ranh giới hạn chế phát triển; ranh giới khuyến khích phát triển), “bốn khu vực” (khu vực bảo tồn, bảo vệ nghiêm ngặt; khu vực ổn định, hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng; khu vực cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng có điều kiện; khu vực được phép chuyển đổi mục đích sử dụng); đảm bảo tính liên vùng trong sử dụng đất. Đặc biệt chú trọng quản lý chặt chẽ diện tích, bảo toàn nguyên vẹn kết hợp với khoanh nuôi, tái sinh vùng lõi 168.301 ha bao gồm: Vườn Quốc gia Pù Mát và 2 Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Huống và Pù Hoạt thuộc 5 huyện: Con Cuông, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, và Tương Dương. Ngoài ra, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với 33 ha đất rừng đặc dụng và 285 ha đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên cần phải được xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở hạn chế đến mức thấp nhất tác động đến vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển.

- Chính quyền địa phương cần phải có chính sách quản lý chặt chẽ hoạt động du lịch sinh thái theo hướng đa mục tiêu, phát triển rừng kết hợp với phát triển du lịch, nghiên cứu khoa học và tham quan để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; bảo tồn tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng và các loài động, thực vật quý hiếm.

- Đối với việc xây dựng thủy điện trên sông Cả, cần thắt chặt hoạt động đầu tư vào các nhà máy thủy điện theo hướng sau: đánh giá tác động chi tiết các dự án phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các thủy điện trong quá trình thực hiện quy hoạch; trong quá trình xây dựng cần phải phải giám sát, theo dõi việc thực hiện theo đúng bản đánh giá tác động môi trường.

    Dựa trên kịch bản số 2, nhóm nghiên cứu đề xuất quy hoạch vùng phía Tây Nghệ An thành 3 khu vực như sau:

- Khu vực bảo tồn, bảo vệ nghiêm ngặt: Vùng lõi của khu vực SQTG Diện tích vùng lõi 168.301ha (12,2%), dân số 1.953 người, bao gồm: Vườn Quốc gia Pù Mát và 2 Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Huống và Pù Hoạt thuộc 5 huyện: Con Cuông, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, và Tương Dương. Khu vực này cần phải được bảo toàn nguyên vẹn của các hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học về loài, các cảnh quan, chỉ phát triển được du lịch sinh thái, trải nghiệm, không được phát triển các lĩnh vực khác.

- Khu vực ổn định, hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng: Vùng đệm của khu SQTG, diện tích vùng đệm 608.547ha, (44,3%); dân số 314.709 người, thuộc 8 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Kỳ Sơn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Thanh Chương, và Tương Dương. Vùng này quy hoạch cho phát triển sản xuất lâm nghiệp, trồng rừng nguyên liệu gỗ, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, dược liệu, chăn nuôi đại gia súc.

- Khu vực cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng có điều kiện: là khu vực nằm ở ngoài cùng, diện tích khoảng 522.947ha (38,1%), dân số 611.367 người, thuộc địa giới hành chính 8 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Kỳ Sơn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Thanh Chương, và Tương Dương. Khu vực này được phát triển các hoạt động kinh tế - xã hội trên cơ sở phát triển bền vững, có tác dụng ngăn chặn, giảm nhẹ sự tác động tiêu cực đến 2 khu vực trên.

5. Kết luận

    Bài báo đã trình bày quy trình và kết quả áp dụng bộ công cụ InVEST của dự án vốn tự nhiên (Natural capital project) do UNEP và các tổ chức quốc tế tài trợ trong phân tích đánh đổi dịch vụ hệ sinh thái hấp thụ-lưu trữ các bon, điều tiết nước và đánh giá môi trường sống phục vụ phân bổ nguồn lực đất đai cho vùng Tây Nghệ An cho thấy:

    Giá trị của các dịch vụ hệ sinh thái hay chất lượng môi trường sống có thể định lượng và phân tích đánh đổi trong bối cảnh phải lựa chọn kịch bản phát triển. Tính khả thi và thực tiễn của nghiên cứu là có thể tham khảo để định hướng sử dụng đất của địa phương đến năm 2030, tầm nhìn 2050.

    Bên cạnh việc lựa chọn kịch bản phát triển, chính quyền địa phương cần có những giải pháp nhằm tăng cường tính liên kết trong phối hợp giữa các huyện trong vùng, tiến hành phân vùng môi trường cũng như ban hành những quy định chặt chẽ chuyển mục đích sử dụng đất nhằm vừa đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, vừa kết hợp hài hòa bảo tồn và khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên sinh vật với việc xóa đói, giảm nghèo, chú trọng khai thác giá trị dịch vụ sinh thái môi trường, cảnh quan đa dạng sinh học của vùng Tây Nghệ An.

ThS. Tô Ngọc Vũ, TS. Lại Văn Mạnh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

TS. Ngô Đăng Trí

Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 12/2022)

 

Tài liệu tham khảo

1. UBND tỉnh Nghệ An (2022), Dự thảo báo cáo Quy hoạch tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2030 và dự thảo Báo cáo đánh giá môi trường Chiến lược của Quy hoạch tỉnh Nghệ An.

2. ISPONRE, GEF, UNDP  (2017), Lượng giá dịch vụ hệ sinh thái.

3. https://naturalcapitalproject.stanford.edu/

4. https://storage.googleapis.com/releases.naturalcapitalproject.org/invest-userguide/latest/index.html

5. Ban quản lý Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An (http://sinhquyennghean.vn)

 

 

 

 

 

 

 

 

NỘI DUNG KHÁC

Công cụ định giá các-bon tại Việt Nam: Hiện trạng và một số khuyến nghị áp dụng

13-7-2023

 Theo Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia dễ bị tổn thương nhất, theo đó, năng suất lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, sẽ bị giảm 26% trong trường hợp phát thải cao và giảm 12% đối với kịch bản phát thải thấp. Báo cáo gần đây của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Quỹ châu Á (Asia Foundation), thiệt hại hàng năm do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra ước tính khoảng 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Đánh giá dịch vụ hệ sinh thái với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam

18-7-2023

Bài viết nêu bật đặc trưng của hệ sinh thái Việt Nam, sự suy giảm dịch vụ hệ sinh thái và nguyên nhân dẫn đến suy giảm, những dịch vụ cơ bản mà hệ sinh thái đem lại cho phát triển kinh tế - xã hội, sự cần thiết phải đánh giá dịch vụ hệ sinh thái.

Thực hiện kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam: Từ cơ sở lý luận đến xác lập chính sách

19-7-2023

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính (line economy) sang mô hình kinh tế tuần hoàn (circular economy) là một chủ trương lớn của Đảng đã được thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và được quy định tại Điều 142 của Luật BVMT năm 2020, đồng thời được cụ thể hóa tại Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ. Đồng thời, cùng với thực hiện quy định của pháp luật, quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch các tỉnh cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nội dung kinh tế tuần hoàn (KTTH) cũng đã được lồng ghép trong các quy hoạch này. Từ quy hoạch có thể thấy, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH là nội dung cần được triển khai sớm trong thực tiễn thời gian tới.

Áp dụng kinh tế tuần hoàn trong ngành nhựa ở Việt Nam

20-7-2023

Ô nhiễm nhựa hiện nay là một thách thức lớn ở cả cấp độ toàn cầu cũng như với từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế tuần hoàn (KTTH) ngày càng được chú trọng phát triển, việc áp dụng KTTH trong lĩnh vực nhựa có tiềm năng đem tới nhiều lợi ích, bao gồm giảm ô nhiễm trên đất liền và trên biển, giảm phát thải khí nhà kính, tạo sinh kế xanh, tiết kiệm cho ngân sách và các doanh nghiệp. Đã có nhiều mô hình KTTH trong lĩnh vực nhựa được áp dụng trên thế giới, cùng với một số mô hình tiên phong ở Việt Nam đem lại hiệu quả. Việc phát triển KTTH trong thời gian tới cần chú trọng nghiên cứu, đổi mới cách tiếp cận, công nghệ, giải pháp, trên cơ sở phân tích lộ trình phù hợp.

Mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn trên thế giới và bài học cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

27-7-2023

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu hướng của các quốc gia, nhất là khi nguồn tài nguyên trên thế giới ngày càng cạn kiệt, bởi giúp giải quyết bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường. Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một chu trình sản xuất khép kín, các tài nguyên, chất thải của quá trình sản xuất trước được tận dụng lại hoặc tái sử dụng, các dòng phế liệu được biến thành đầu vào của chu trình sản xuất mới. Bài viết này dựa trên nguồn dữ  liệu thứ cấp đã đề cập đến lợi ích của KTTH và một số mô hình phát triển KTTH điển hình trên thế giới để rút ra một số bài học cho Việt Nam nhằm phát triển một nền kinh tế đảm bảo hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, tăng trưởng kinh tế song hành với giảm tải tác hại biến đổi khí hậu.

Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam về xây dựng danh mục phân loại xanh hỗ trợ cho thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh

27-7-2023

 Phát triển thị trường tín dụng xanh (TDX), trái phiếu xanh (TPX) đang là xu hướng nổi lên mạnh mẽ ở phạm vi toàn cầu với sự tham gia ngày càng nhiều các quốc gia phát triển cũng như các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)...  Hai kênh huy động vốn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về môi trường, khí hậu. Ở Việt Nam, ngay từ khi Nghị quyết số 41-NQ/TW năm 2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đưa ra nhiệm vụ “Phát triển các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng về môi trường nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư BVMT”. Trong khoảng 10 năm gần đây, nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các Bộ, ngành cũng đặt ra mục tiêu phát triển tài chính xanh, TDX, TPX. Tuy vậy, dưới góc độ pháp luật thì trước khi Luật BVMT năm 2020 được ban hành, hành lang pháp lý để hỗ trợ cho hai kênh tài chính này lại hết sức thiếu hụt, không đồng bộ.

Đề xuất một số nội dung về quyền bề mặt trong sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013

28-7-2023

Là một vật quyền phái sinh sau quyền sử dụng đất, luôn đi cùng với quyền sử dụng đất, quyền bề mặt không chỉ được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự mà còn cần phải được thể hiện trong Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Để đảm bảo cho quyền bề mặt được thi hành trên thực tế, phát huy cao nhất giá trị của nó thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 cần chú ý hoàn thiện một số nội dung liên quan đến quyền bề mặt.

Công cụ thuế, phí trong thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc

31-7-2023

Quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, lấy sản xuất công nghiệp, dựa vào đầu tư và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên làm hướng đi cho nền kinh tế khiến cho Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức về ô nhiễm môi trường và kéo theo nhiều hệ lụy đối với tự nhiên (hiện tượng sa mạc hóa, cạn kiệt nguồn nước, suy thoái và mất đa dạng sinh học). Trước những áp lực đó, kinh tế tuần hoàn (KTTH) nổi lên như một công cụ hữu hiệu, đem lại những hiệu quả tích cực đối với tiến trình phát triển bền vững của quốc gia này. Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng và ban hành những chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy, khuyến khích tổ chức, cá nhân triển khai, áp dụng KTTH, một trong số đó là các chính sách áp dụng công cụ thuế, phí. Dựa trên kết quả rà soát, nghiên cứu quá trình thực hiện KTTH ở Trung Quốc cũng như phân tích các công cụ thuế, phí mà quốc gia này áp dụng, đối chiếu với thực tiễn ở Việt Nam, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị với công cụ thuế, phí để phù hợp với quá trình hiện thực hóa KTTH ở Việt Nam.

Cơ sở lý luận về huy động nguồn lực của khu vực tư nhân trong hoạt động giảm phát thải khí nhà kính

2-8-2023

Hiện nay, Biến đổi khí hậu (BĐKH) được coi là một trong những  mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với nhân loại, tác động tới mọi mặt kinh  tế, xã hội và môi trường. Trong đó, Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đã xác định nguyên nhân chủ yếu của BĐKH toàn  cầu là do phát thải khí nhà kính (KNK) của con người. Đặc biệt, xu hướng gia tăng khí thải có khả năng sẽ dẫn đến BĐKH ở mức nguy hiểm.

Các yếu tố ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường  làng nghề Việt Nam

4-8-2023

Để cải thiện ô nhiễm môi trường ở các làng nghề một cách căn cơ, đòi hỏi sự nỗ lực vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, nhất là chính quyền cơ sở và bản thân người dân các làng nghề. Theo đó, công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề phải được quan tâm chú trọng và đầu tư đúng mức, đặc biệt là đối với những làng nghề ô nhiễm và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường làng nghề hiện nay là một bước quan trọng nhằm góp phần đề xuất và thực thi giải pháp phù hợp, hiệu quả trong công cuộc bảo vệ môi trường ở các làng nghề Việt Nam.

Xu hướng của các hệ sinh thái Việt Nam

10-8-2023

Diện tích và độ che phủ rừng của Việt Nam có xu hướng tăng chủ yếu là rừng trồng mới; hệ sinh thái (HST) sông, suối, hồ, hồ chứa và vùng cửa sông bị suy thoái và suy giảm mức đa dạng sinh học (ĐDSH); đầm lầy than bùn bị suy giảm về diện tích và độ dày tầng than bùn; thảm cỏ biển bị suy giảm về diện tích; rạn san hô ở biển Việt Nam đang suy giảm về diện tích và độ phủ san hô sống; số lượng loài bị đe dọa tăng lên; số lượng cá thể các loài nguy cấp bị suy giảm hoặc đã lâu không thấy xuất hiện.

Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc về đối tác công tư trong ngành nước và một số khuyến nghị cho Việt Nam

11-8-2023

Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership - sau đây gọi tắt là PPP) không chỉ có lịch sử phát triển lâu dài ở các quốc gia phát triển mà còn được triển khai ở các nền kinh tế mới nổi. Phương thức này đã chứng tỏ được tính hiệu quả trong việc chia sẻ rủi ro, gánh nặng tài chính với khu vực công; tiết kiệm thời gian, chi phí; tận dụng kỹ năng chuyên môn và chuyển giao công nghệ trong quá trình thiết kế, mua sắm, thi công, vận hành công trình; đổi mới việc cung cấp dịch vụ công cộng và góp phần cải thiện mạnh mẽ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia ở châu Á đã áp dụng tương đối thành công mô hình này trong đầu tư các dịch vụ trong ngành nước, trong đó điển hình là Trung Quốc. Đây là quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam khi bắt đầu triển khai áp dụng mô hình PPP. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc khi áp dụng PPP có thể cung cấp một số bài học cho Việt Nam trong việc giải quyết các thách thức về vốn ngày càng gia tăng trong đầu tư phát triển hạ tầng trong ngành nước.