ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Thực hiện kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam: Từ cơ sở lý luận đến xác lập chính sách

Ngày đăng: 19 | 07 | 2023

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính (line economy) sang mô hình kinh tế tuần hoàn (circular economy) là một chủ trương lớn của Đảng đã được thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 và được quy định tại Điều 142 của Luật BVMT năm 2020, đồng thời được cụ thể hóa tại Nghị định số 08/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ. Đồng thời, cùng với thực hiện quy định của pháp luật, quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch các tỉnh cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nội dung kinh tế tuần hoàn (KTTH) cũng đã được lồng ghép trong các quy hoạch này. Từ quy hoạch có thể thấy, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH là nội dung cần được triển khai sớm trong thực tiễn thời gian tới.

1. Những vấn đề đặt ra cho thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH

    Hiện nay, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH ở Việt Nam đang trong quá trình triển khai, đã có những phác thảo đầu tiên để lấy ý kiến và tham vấn rộng rãi của các nhà quản lý, nhà khoa học, các địa phương, tổ chức quốc tế, doanh nhiệp… nhằm có được một bản Dự thảo Kế hoạch hành động tốt nhất. Qua đó cho thấy, những vấn đề đặt ra đối với Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH (gọi tắt là Kế hoạch) như sau.

Mục tiêu và phân kỳ thời gian thực hiện Kế hoạch hành động thực hiện KTTH

    Trước hết, Kế hoạch cần xác định mục tiêu cần đạt được cho từng giai đoạn trên cơ sở những mục tiêu đã được vạch ra trong quy hoạch (từ quy hoạch tổng thể quốc gia đến quy hoạch ngành hiện nay, mốc thời gian cơ bản xác định trong giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050). Như vậy, Kế hoạch cũng phải thể hiện được mục tiêu cụ thể cho 2 giai đoạn này. Đối với giai đoạn 2021 - 2030, nên phân kỳ Kê hoạch thực hiện theo hai mốc thời gian: 5 năm đầu 2021 - 2025 và 5 năm tiếp theo 2026 - 2030 để phù hợp với thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Đối với kế hoạch dài hạn tầm nhìn đến năm 2050, Kế hoạch hành động thực hiện KTTH cũng cần tính toán, nhìn nhận và nên phân kỳ thành hai giai đoạn: 2031 - 2040 và 2041 - 2050, như vậy, sẽ phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia của hai giai đoạn này.

Nội dung thực hiện Kế hoạch hành động thực hiện KTTH

    Đối với nội dung thực hiện Kế hoạch hành động, trên cơ sở phân kỳ thời gian như ở trên, cần nghiên cứu xây dựng Kế hoạch cho từng giai đoạn (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn). Muốn vậy, cần nghiên cứu kỹ các nội dung đặt ra trong Chiến lược và quy hoạch tổng thể quốc gia, ngành và địa phương để có những nội dung phù hợp. Mặt khác, hiện nay, Chính phủ cũng ban hành một số quyết định liên quan đến việc thực hiện KTTH như Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định  số: 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 về phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 về phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam. Những nội dung chỉ đạo liên quan đến KTTH trong các văn bản đó cần được rà soát, nghiên cứu kỹ mức độ thực hiện, những vấn đề phù hợp để tích hợp vào Kế hoạch hành động thực hiện KTTH. Qua đó, tránh sự trùng lặp, bỏ sót, hay mâu thuẫn với các văn bản đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Việc thực hiện Kế hoạch hành động cấp quốc gia cần có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ban ngành, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Vì những cơ quan này liên quan nhiều đến các văn bản chỉ đạo trình Chính phủ thực hiện nội dung KTTH trong Chiến lược và quy hoạch quốc gia về KTTH.

Đối tượng thực hiện Kế hoạch

    Thủ tướng Chính phủ ban hành kế hoạch thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về KTTH, trong đó quy định rõ vai trò của các bên liên quan như sau: Đối với các Bộ, ngành, theo chức năng nhiệm vụ của mình sẽ thực hiện những nội dung liên quan (vai trò chủ trì, phối hợp) phù hợp với các Bộ, ngành đó. Nội dung chính của các Bộ, ngành là thực thi, rà soát, tham vấn Chính phủ sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách để thực hiện KTTH phù hợp với chuyển đổi mô hình từ kinh tế tuyến tính sang KTTH; tạo cơ chế thuận lợi để triển khai trong thực tiễn các mô hình KTTH; tổ chức thực hiện; kiểm tra giám sát việc thực hiện các mô hình KTTH đã được đề ra trong Kế hoạch hành động theo ngành, lĩnh vực; sơ kết, tổng kết trong từng giai đoạn theo ngành, lĩnh vực để có sự bổ sung, điều chỉnh chính sách kịp thời đối với thực thi Kế hoạch hành động, nhất là hai giai đoạn đầu đến năm 2026 và 2030.  

    Đối với các địa phương, chủ yếu là cấp tỉnh, trên cơ sở quy hoạch tỉnh cho giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, cần triển khai thực hiện lồng ghép nội dung thực hiện KTTH trong quy hoạch tỉnh đối với mô hình cho các ngành, các vùng phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đặc biệt, có sự gắn kết phát triển với các nội dung, lĩnh vực khác đã và đang được triển khai như xây dựng nông thôn mới (sản phẩm của Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) gắn với mô hình KTTH). Các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh chuyển sang mô hình khu, cụm công nghiệp, khu kiKTTH. Những tỉnh, thành phố đã và đang thực hiện mô hình kinh tế xanh, kinh tế sinh thái bổ sung tiêu chí để chuyển đổi tiếp theo sang mô hình KTTH sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi. Các địa phương có làng nghề truyền thống, cũng như những làng nghề mới hình thành cần quy hoạch chuyển đổi các làng nghề sang mô hình KTTH. Bên cạnh đó, các ngành, dịch vụ có lợi thế như dịch vụ xử lý chất thải, nhà hàng, khách sạn, các dịch vụ đô thị khác như trồng tỉa cây xanh, tháo dỡ vật liệu xây dựng sẽ có nhiều điều kiện để thực hiện mô hình KTTH. Do mỗi địa phương có đặc thù riêng, do đó, để triển khai thực hiện mô hình KTTH trên địa bàn phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh/thành phố đòi hỏi có sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chí cơ bản để thực hiện mô hình KTTH tại địa phương.

    Ngoài ra, doanh nghiệp và người dân là những đối tượng thực hiện mô hình KTTH, vì vậy, các đối tượng này cần được trang bị đầy đủ về kiến thức, kỹ năng thực hiện mô hình KTTH. Đối với doanh nghiệp, để thực hiện mô hình KTTH, ngoài những kiến thức về KTTH, họ cần được nâng cao nhận thức về chính sách, pháp luật liên quan đến KTTH, nhất là những chính sách khuyến khích, ưu đãi khi thực hiện mô hình KTTH. Mặt khác, mô hình KTTH đòi hỏi phải thực hiện từ khâu thiết kế cho đến sản xuất, tiêu dùng, sự chuyển đổi của các dòng chất thải để tạo thành một vòng tròn khép kín nhằm mang lại hiệu quả kinh tế tốt nhất cho doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động đầu tư, chuyển đổi công nghệ trong sản xuất, đào tạo con người vận hành và nhiều nội dung liên quan khác. Sự chủ động của doanh nghiệp là quan trọng nhất, đặc biệt là vai trò của chủ doanh nghiệp, khi chủ doanh nghiệp nhận thức được lợi thế của việc thực hiện mô hình KTTH thì việc triển khai thực hiện mô hình KTTH ở địa phương sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Thực tiễn này đã được chứng minh ở một số doanh nghiệp đã thành công chuyển đổi sang mô hình KTTH ở nước ta. Bên cạnh đối tượng là doanh nghiệp, mô hình KTTH cũng phải được người dân nhận thức đầy đủ, để họ thấy được lợi ích của KTTH (như thông qua hoạt động phân loại rác tại nguồn, những chất thải có giá trị phải được chính người dân tái sử dụng và coi chất thải như là nguồn tài nguyên). Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH phải đặt doanh nghiệp và người dân ở vị trí trung tâm, là đối tượng thực hiện mô hình KTTH.

    Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phản biện chính sách thực hiện Kế hoạch, thực hiện và giám sát thực hiện các mô hình KTTH. Việc phát huy tốt vai trò các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là tổ chức xã hội - nghề nghiệp sẽ tạo thêm động lực và hoàn thiện các mô hình KTTH ở địa phương, bởi lẽ mô hình KTTH đa dạng, phong phú, thuộc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, do đó, sự tham gia của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp sẽ góp phần quan trọng đối với từng ngành, lĩnh vực.

    Đối với các tổ chức khoa học công nghệ (KHCN) và các nhà khoa học, việc thực hiện mô hình KTTH đòi hỏi có sự đầu tư và đổi mới mô hình, dựa vào KHCN là cốt lõi. Vì vậy, vai trò của các tổ chức KHCN và nhà khoa học đồng hành thực hiện mô hình KTTH là hết sức quan trọng. Tùy thuộc vào từng loại mô hình KTTH triển khai trong thực tiễn, đòi hỏi phải có sự tham gia của các tổ chức KHCN và các nhà khoa học khác nhau, phù hợp với từng loại hình mô hình khác nhau. Các tổ chức KHCN và các nhà khoa học cũng là cầu nối chuyển giao công nghệ tiên tiến trên thế giới, công nghệ mới phù hợp với từng loại hình sản xuất để thực hiện mô hình KTTH trong quá trình thực hiện Kế hoạch ở Việt Nam.

2. Một số khuyến nghị nhằm triển khai thực hiện Kế hoạch

    Để triển khai thực hiện Kế hoạch hiệu quả, một số khuyến nghị được đề xuất như sau.

    Thứ nhất, trên cơ sở nhiệm vụ Chính phủ giao, Bộ TN&MT đã và đang xây dựng Chương trình hành động thực hiện KTTH. Bộ TN&MT cần tiếp tục hoàn thiện, lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, doanh nghiệp, các Bộ, Ban ngành để kịp thời gian trình Chính phủ trước tháng 12/2023.

    Thứ hai, để Kế hoạch có hiệu quả và chất lượng, cần có sự gắn kết, đồng bộ với các văn bản, quy định khác liên quan, tránh sự mâu thuẫn, trùng lặp và xung đột với các văn bản đã ban hành.

    Thứ ba, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản và vận hành của thị trường, lấy động lực thị trường để thúc đẩy phát triển các mô hình KTTH; Tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong đầu tư, phát triển các mô hình KTTH cho các ngành, lĩnh vực khác nhau.

    Thứ tư, việc chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình KTTH sẽ có sự thay đổi cơ bản từ nhận thức, chính sách, công nghệ… và chuyển biến toàn xã hội trong sản xuất, tiêu dùng gắn với kinh tế, tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu. Do vậy, đòi hỏi phải có một chiến lược cụ thể trong giai đoạn ngắn hạn, cũng như dài hạn và được thể hiện rõ trong Kế hoạch hành động thực hiện KTTH.

    Thứ năm, nhiều mô hình KTTH đã thành công trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, có trình độ KHCN cao, đó là cơ hội tốt cho Việt Nam học tập và chuyển giao. Cùng với cơ hội là những thách thức lớn, vì vậy, việc thực hiện Kế hoạch cần có sự lựa chọn, ưu tiên phù hợp với từng giai đoạn và điều kiện thực tiễn, tính khả thi khi triển khai mô hình KTTH ở Việt Nam nhằm đạt hiệu quả tối ưu.

Kết luận

    Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH là sự cụ thể hóa quy hoạch và những quy định pháp luật về khuyến khích phát triển mô hình KTTH ở Việt Nam. Đây là sự chuyển biến lớn trong mô hình phát triển kinh tế ở Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thế giới là chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sử dụng hao tốn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường sang mô hình KTTH, giảm thiểu tối đa việc sử dụng tài nguyên, kéo dài vòng đời sản phẩm và giảm chất thải ra môi trường, tiến tới phát thải bằng không trong toàn bộ hệ thống kinh tế. Muốn vậy, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH cần được triển khai sớm và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, phát huy vai trò của các bên liên quan trong thực hiện các mô hình KTTH.

PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh

Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường, số 6/2023)

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ. Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 về phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam”.

2. Chính phủ. Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.

3. Chính phủ. Quyết định  số 150/QĐ-TTg ngày 28/1/2022 về phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.

4. Chính phủ. Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022. Quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT năm 2020.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam. “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (ST). Hà Nội - 2021.

NỘI DUNG KHÁC

Áp dụng kinh tế tuần hoàn trong ngành nhựa ở Việt Nam

20-7-2023

Ô nhiễm nhựa hiện nay là một thách thức lớn ở cả cấp độ toàn cầu cũng như với từng quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế tuần hoàn (KTTH) ngày càng được chú trọng phát triển, việc áp dụng KTTH trong lĩnh vực nhựa có tiềm năng đem tới nhiều lợi ích, bao gồm giảm ô nhiễm trên đất liền và trên biển, giảm phát thải khí nhà kính, tạo sinh kế xanh, tiết kiệm cho ngân sách và các doanh nghiệp. Đã có nhiều mô hình KTTH trong lĩnh vực nhựa được áp dụng trên thế giới, cùng với một số mô hình tiên phong ở Việt Nam đem lại hiệu quả. Việc phát triển KTTH trong thời gian tới cần chú trọng nghiên cứu, đổi mới cách tiếp cận, công nghệ, giải pháp, trên cơ sở phân tích lộ trình phù hợp.

Mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn trên thế giới và bài học cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

27-7-2023

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu hướng của các quốc gia, nhất là khi nguồn tài nguyên trên thế giới ngày càng cạn kiệt, bởi giúp giải quyết bài toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường. Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là một chu trình sản xuất khép kín, các tài nguyên, chất thải của quá trình sản xuất trước được tận dụng lại hoặc tái sử dụng, các dòng phế liệu được biến thành đầu vào của chu trình sản xuất mới. Bài viết này dựa trên nguồn dữ  liệu thứ cấp đã đề cập đến lợi ích của KTTH và một số mô hình phát triển KTTH điển hình trên thế giới để rút ra một số bài học cho Việt Nam nhằm phát triển một nền kinh tế đảm bảo hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, tăng trưởng kinh tế song hành với giảm tải tác hại biến đổi khí hậu.

Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam về xây dựng danh mục phân loại xanh hỗ trợ cho thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh

27-7-2023

 Phát triển thị trường tín dụng xanh (TDX), trái phiếu xanh (TPX) đang là xu hướng nổi lên mạnh mẽ ở phạm vi toàn cầu với sự tham gia ngày càng nhiều các quốc gia phát triển cũng như các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)...  Hai kênh huy động vốn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về môi trường, khí hậu. Ở Việt Nam, ngay từ khi Nghị quyết số 41-NQ/TW năm 2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đưa ra nhiệm vụ “Phát triển các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng về môi trường nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư BVMT”. Trong khoảng 10 năm gần đây, nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các Bộ, ngành cũng đặt ra mục tiêu phát triển tài chính xanh, TDX, TPX. Tuy vậy, dưới góc độ pháp luật thì trước khi Luật BVMT năm 2020 được ban hành, hành lang pháp lý để hỗ trợ cho hai kênh tài chính này lại hết sức thiếu hụt, không đồng bộ.

Đề xuất một số nội dung về quyền bề mặt trong sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013

28-7-2023

Là một vật quyền phái sinh sau quyền sử dụng đất, luôn đi cùng với quyền sử dụng đất, quyền bề mặt không chỉ được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự mà còn cần phải được thể hiện trong Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Để đảm bảo cho quyền bề mặt được thi hành trên thực tế, phát huy cao nhất giá trị của nó thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 cần chú ý hoàn thiện một số nội dung liên quan đến quyền bề mặt.

Công cụ thuế, phí trong thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn ở Trung Quốc

31-7-2023

Quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, lấy sản xuất công nghiệp, dựa vào đầu tư và tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên làm hướng đi cho nền kinh tế khiến cho Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức về ô nhiễm môi trường và kéo theo nhiều hệ lụy đối với tự nhiên (hiện tượng sa mạc hóa, cạn kiệt nguồn nước, suy thoái và mất đa dạng sinh học). Trước những áp lực đó, kinh tế tuần hoàn (KTTH) nổi lên như một công cụ hữu hiệu, đem lại những hiệu quả tích cực đối với tiến trình phát triển bền vững của quốc gia này. Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng và ban hành những chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy, khuyến khích tổ chức, cá nhân triển khai, áp dụng KTTH, một trong số đó là các chính sách áp dụng công cụ thuế, phí. Dựa trên kết quả rà soát, nghiên cứu quá trình thực hiện KTTH ở Trung Quốc cũng như phân tích các công cụ thuế, phí mà quốc gia này áp dụng, đối chiếu với thực tiễn ở Việt Nam, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị với công cụ thuế, phí để phù hợp với quá trình hiện thực hóa KTTH ở Việt Nam.

Cơ sở lý luận về huy động nguồn lực của khu vực tư nhân trong hoạt động giảm phát thải khí nhà kính

2-8-2023

Hiện nay, Biến đổi khí hậu (BĐKH) được coi là một trong những  mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với nhân loại, tác động tới mọi mặt kinh  tế, xã hội và môi trường. Trong đó, Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đã xác định nguyên nhân chủ yếu của BĐKH toàn  cầu là do phát thải khí nhà kính (KNK) của con người. Đặc biệt, xu hướng gia tăng khí thải có khả năng sẽ dẫn đến BĐKH ở mức nguy hiểm.

Các yếu tố ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường  làng nghề Việt Nam

4-8-2023

Để cải thiện ô nhiễm môi trường ở các làng nghề một cách căn cơ, đòi hỏi sự nỗ lực vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành, nhất là chính quyền cơ sở và bản thân người dân các làng nghề. Theo đó, công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề phải được quan tâm chú trọng và đầu tư đúng mức, đặc biệt là đối với những làng nghề ô nhiễm và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đối với sự phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường làng nghề hiện nay là một bước quan trọng nhằm góp phần đề xuất và thực thi giải pháp phù hợp, hiệu quả trong công cuộc bảo vệ môi trường ở các làng nghề Việt Nam.

Xu hướng của các hệ sinh thái Việt Nam

10-8-2023

Diện tích và độ che phủ rừng của Việt Nam có xu hướng tăng chủ yếu là rừng trồng mới; hệ sinh thái (HST) sông, suối, hồ, hồ chứa và vùng cửa sông bị suy thoái và suy giảm mức đa dạng sinh học (ĐDSH); đầm lầy than bùn bị suy giảm về diện tích và độ dày tầng than bùn; thảm cỏ biển bị suy giảm về diện tích; rạn san hô ở biển Việt Nam đang suy giảm về diện tích và độ phủ san hô sống; số lượng loài bị đe dọa tăng lên; số lượng cá thể các loài nguy cấp bị suy giảm hoặc đã lâu không thấy xuất hiện.

Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc về đối tác công tư trong ngành nước và một số khuyến nghị cho Việt Nam

11-8-2023

Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Public Private Partnership - sau đây gọi tắt là PPP) không chỉ có lịch sử phát triển lâu dài ở các quốc gia phát triển mà còn được triển khai ở các nền kinh tế mới nổi. Phương thức này đã chứng tỏ được tính hiệu quả trong việc chia sẻ rủi ro, gánh nặng tài chính với khu vực công; tiết kiệm thời gian, chi phí; tận dụng kỹ năng chuyên môn và chuyển giao công nghệ trong quá trình thiết kế, mua sắm, thi công, vận hành công trình; đổi mới việc cung cấp dịch vụ công cộng và góp phần cải thiện mạnh mẽ hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia ở châu Á đã áp dụng tương đối thành công mô hình này trong đầu tư các dịch vụ trong ngành nước, trong đó điển hình là Trung Quốc. Đây là quốc gia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam khi bắt đầu triển khai áp dụng mô hình PPP. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc khi áp dụng PPP có thể cung cấp một số bài học cho Việt Nam trong việc giải quyết các thách thức về vốn ngày càng gia tăng trong đầu tư phát triển hạ tầng trong ngành nước.

Quyền tiếp cận thông tin trong lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

14-8-2023

Ở Việt Nam hiện nay, quyền tiếp cận thông tin được ghi nhận tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quyền này chưa được bảo đảm ở một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đất đai. Quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực đất đai là quyền mà người sử dụng đất cần được tiếp cận nhằm bảo đảm các nhu cầu hợp pháp của mình và để thực hiện các quyền cơ bản khác của người sử dụng đất mà pháp luật ghi nhận [4]. Việc thiếu minh bạch về thông tin đất đai khiến cơ hội tham nhũng gia tăng, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực khiến công dân, các doanh nghiệp phải tăng chi phí nỗ lực tìm kiếm thông tin. Vì vậy, việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin đất đai cũng như trong quá trình triển khai thực hiện nhằm đưa ra một số giải pháp hoàn thiện chính sách, đảm bảo thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin đất đai nói chung và tiếp cận thông tin trong lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói riêng.

Từ kinh nghiệm quốc tế, đề xuất các ngành, lĩnh vực ưu tiên thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

15-8-2023

  Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang được xem là xu thế tất yếu của thời đại, được đồng thuận toàn cầu và được các nước trên thế giới coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỷ 21, là cơ hội để cộng đồng toàn cầu chung tay thực hiện cam kết quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, nhằm mục tiêu phát triển bền vững vì sức khỏe của người dân, môi trường thiên nhiên và Trái đất. Xác định ngành, lĩnh vực ưu tiên trong thực hiện KTTH đóng vai trò vô cùng quan trọng lộ trình thực hiện, áp dụng KTTH tại nhiều quốc gia trên thế giới. Thông qua tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về các chính sách thúc đẩy và các lĩnh vực ưu tiên thực hiện KTTH, nghiên cứu sẽ đề xuất các ngành, lĩnh vực trọng tâm cần thiết triển khai áp dụng KTTH tại Việt Nam trong thời gian tới.

Gắn kết phát triển kinh tế tuần hoàn và kinh tế số ở Việt Nam

16-8-2023

Bài viết góp bàn về mối quan hệ gắn kết phát triển kinh tế tuần hoàn và kinh tế số ở nước ta trên 3 phương diện: Gắn kết phát triển kinh tế tuần hoàn và kinh tế số như là cách thức tất yếu để phát triển bền vững và xanh; Các vấn đề đặt ra trong gắn kết phát triển kinh tế tuần hoàn và kinh tế số ở nước ta; Những gợi ý chính sách về gắn kết phát triển kinh tế tuần hoàn và kinh tế số ở nước ta.