ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

Ngày đăng: 31 | 05 | 2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

    Vốn hóa các giá trị ĐDSH, bao gồm những giá trị không sử dụng, giá trị để lại và tâm linh. Ở một số quốc gia, tạo dựng thị trường cho tự nhiên được áp dụng như tín chỉ ĐDSH, điển hình như: Ngân hàng sinh học Malua tại Malaixia; trái phiếu Tê giác ở Nam Phi; tín chỉ động vật hoang dã ở Namibia; ngân hàng bảo tồn các loài ở Mỹ; hạch toán sinh thái ở Đức; chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên ở Costa Rica [3]. Bồi hoàn ĐDSH cũng được áp dụng ở một nước như: Ôxtrâylia [4], Anh, Nam Phi [3]. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đã phối hợp với các chuyên gia về tài chính của Công ty quản lý Quỹ Dragon Capital tại Việt Nam đã thực hiện nghiên cứu về lượng giá ĐDSH, cơ chế dựa vào thị trường cho bảo tồn ĐDSH, lựa chọn phân tích mô hình cụ thể về cơ chế bồi hoàn và tín chỉ ĐDSH ở tiểu bang New South Wale (NSW) của Ôxtrâylia, qua đó nhận định về xu hướng mở rộng và cơ hội hình thành thị trường trên thế giới, khuyến nghị chính sách cho Việt Nam trong thời gian tới.

1. Bồi hoàn ĐDSH

    Bồi hoàn ĐDSH hay đền bù sinh thái được xem là một công cụ dựa vào thị trường [4] cho bảo tồn ĐDSH. Bồi hoàn ĐDSH được xem là kết quả bảo tồn có thể đo lường được do các hành động được thiết kế để bù đắp cho các tác động bất lợi đến ĐDSH còn sót lại phát sinh từ quá trình phát triển dự án đô thị, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, khai khoáng… và vẫn tồn tại sau khi áp dụng các biện pháp tránh, giảm thiểu và phục hồi thích hợp. Mục tiêu của bồi hoàn ĐDSH là không để mất đi trên thực tế và thậm chí là ở mức tốt hơn về ĐDSH liên quan đến các loài, cấu trúc môi trường sống, chức năng HST và cả các giá trị văn hóa liên quan đến ĐDSH.

    Bồi hoàn ĐDSH được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và đã được phát triển như một cơ chế để cải thiện các tác động tiêu cực đến môi trường của việc giải phóng mặt bằng để phát triển đô thị, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng hoặc các dự án khai thác và khí đốt. Về mặt lý thuyết, bồi hoàn ĐDSH hoạt động bằng cách bảo vệ và quản lý các giá trị ĐDSH ở một khu vực để đổi lấy việc tác động đến các giá trị ĐDSH ở khu vực khác, bằng cách thông qua khôi phục lại môi trường sống trên vùng đất đã bị phá trước đó hoặc tăng chất lượng môi trường sống của một khu vực có tiềm năng bảo tồn hoặc mở rộng một khu vực tiềm năng mới. Tóm lại, cơ chế này đặt ra mục tiêu cần phải cải thiện các giá trị ĐDSH của một khu vực bù đắp để không làm mất đi giá trị ĐDSH như Hình 1 dưới đây.

31 5 23 1

Nguồn: Nature Conservation Council of NSW, 2016 [6]

Hình 1. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc bồi hoàn cho các tác động của phát triển

2. Mô hình bồi hoàn và tín chỉ DDSH ở New South Wale của Ôxtrâylia

    Mô hình bồi hoàn ĐDSH ở NSW của nước Úc được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng 7/2018 với mục tiêu là thực hiện cơ chế khuyến khích dựa vào thị trường theo hướng vừa khuyến khích các hành động bảo tồn và hạn chế, ngăn ngừa các hành động xâm hại đến ĐDSH[7]. Theo đạo Luật của tiểu bang NSW, bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào thực hiện một dự án có tác động hoặc phát quang từ 0,5 ha (1,5 mẫu Anh), 5000 m2 thảm thực vật sẽ được yêu cầu bồi hoàn. Để đạt được các khoản bồi hoàn cần thiết, các nhà phát triển cần phải mua các khoản tín chỉ ĐDSH [8]. Từ năm 2015 - 2019, khoản tín chỉ ĐDSH trị giá 266 triệu đô la đã được chuyển giao tại New South Wale góp phần quan trọng để duy trì các giá trị ĐDSH ở mức tốt nhất ở Greater Western Sydney [9]. Cơ chế bồi hoàn và tín chỉ ĐDSH được mô phỏng theo Hình 2 [5]:

31 5 23 2

 Hình 2. Mô hình bồi hoàn và tín chỉ ĐDSH ở NSW, Ôxtrâylia

    Theo mô hình các chủ thể chính tham gia vào cơ chế này, bao gồm:

    Một là, cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm ban hành chính sách liên quan đến quyền, trách nhiệm cho đền bù ĐDSH; hướng dẫn các phương pháp đánh giá ĐDSH; thực hiện kiểm tra, giám sát để minh bạch các vấn đề trong chương trình; cấp chứng nhận cho các cán bộ tham gia đánh giá ĐDSH; chuyển đổi hoặc loại bỏ các tín chỉ ĐDSH ra khỏi danh sách tín chỉ, ban hành quy định giá trị tín chỉ hợp lý. Vận hành hệ thống quản lý thỏa thuận và bồi hoàn ĐDSH, tính toán mức bồi hoàn, tính toán chi phí phục hồi và công khai các thông tin.

    Hai là, chủ cơ sở bảo tồn hay tổ chức, cá nhân có đất cam kết đẩy mạnh bảo tồn ĐDSH trên phần đất mà họ quản lý hoặc đăng ký thông qua thỏa thuận bảo tồn ĐDSH. Những chủ thể này có thể tham gia một phần và tiếp tục các mục đích khác của họ trên phần đất đã thỏa thuận nhưng phải đảm bảo các hoạt động này không gây tác động tiêu cực cho các giá trị ĐDSH. Chủ cơ sở bảo tồn hay tổ chức, cá nhân tham gia ký thỏa thuận bảo tồn ĐDSH được cấp tín chỉ bảo tồn ĐDSH.

    Ba là, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm bồi hoàn là các nhà đầu tư thực hiện dự án phát triển đang có tác động hoặc dự báo sẽ tác động đến ĐDSH do quá trình xây dựng, mở rộng khu vực thực hiện dự án. Các tổ chức, cá nhân này được lựa chọn nhiều cách để thực hiện nghĩa vụ như bồi hoàn trực tiếp thông qua mua tín chỉ từ chủ sở hữu các khu bảo tồn hoặc mua thông qua môi giới trung gian hoặc trả tiền vào quỹ bảo tồn ĐDSH (BCF) để tổ chức bảo tồn ĐDSH sẽ thay mặt họ thực hiện trách nhiệm bồi hoàn, đóng góp vào các chương trình bồi hoàn ĐDSH. Ngoài ra, cơ quan này cũng có thể đóng góp vào các chương trình bồi hoàn của các dự án phát triển mà họ muốn.

    Bốn là, cơ quan bảo tồn ĐDSH được thành lập bởi Nhà nước có vai trò: (i) tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp tín chỉ bảo tồn ĐDSH, quản lý việc giao dịch tín chỉ ĐDSH khi các tổ chức, cá nhân bảo tồn hoặc đăng ký tham gia bảo tồn muốn phát hành tín chỉ ra thị trường; (ii) quản lý quỹ bảo tồn ĐDSH. Khi tín chỉ bảo tồn ĐDSH được bán, chủ sở hữu đất sẽ phải đạt cọc một khoản tiền nhất định vào quỹ. Tổ chức này sẽ sử dụng tiền trong quỹ này để đầu tư bằng việc mua hoặc mở rộng các khu bảo tồn khác, nhằm tạo ra thêm tín chỉ bảo tồn ĐDSH, tiền này cũng được dụng để chi trả phí cho bảo tồn ĐDSH cho các bên liên quan. Các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm bồi hoàn có thể trả tiền vào quỹ bảo tồn ĐDSH với mức giá được quy định; (iii) sử dụng cơ chế để đảm bảo gồm mức giá cố định của tín chỉ bảo tồn ĐDSH.

3. Công cụ tài chính trung gian

    Khi cơ chế bồi hoàn ĐDSH hay đền bù sinh thái được hình thành, có sự tham gia của người mua, người bán, người môi giới sẽ xuất hiện một số loại công cụ tài chính trung gian dưới đây:

    Thỏa thuận bảo tồn ĐDSH: Là một thỏa thuận tự nguyện giữa tổ chức bảo tồn ĐDSH và chủ quản lý khu bảo tồn nhằm cải thiện giá trị ĐDSH trong khu bảo tồn đó. Thỏa thuận này cho phép chủ quản lý khu bảo tồn tạo ra tín chỉ bảo tồn ĐDSH và tín chỉ này có thể chuyển nhượng cho tổ chức bảo tồn hoặc tổ chức, cá nhân có nhu cầu hoặc chịu trách nhiệm bồi hoàn.

    Quỹ bảo tồn ĐDSH: Quỹ này được quản lý bởi tổ chức bảo tồn ĐDSH. Tổ chức, cá nhận chịu trách nhiệm đền bù sinh thái có thể trả tiền vào quỹ để BCT sẽ thay mặt họ tìm kiếm và mua các tín chỉ phù hợp và giúp họ hoàn thành nghĩa vụ của mình.

    Tín chỉ ĐDSH: tín chỉ ĐDSH được xem là công cụ kinh tế để tạo dựng thị trường cho tự nhiên [4]. Tín chỉ ĐDSH được hiểu là một bản xác nhận hay giấy chứng nhận về bảo tồn, là bước phát triển của cơ chế bồi hoàn ĐDSH được hình thành dựa trên cơ chế thị trường để vốn hóa nỗ lực bảo tồn ĐDSH. Tín chỉ ĐDSH được sử dụng để đo lường những tác động không thể tránh khỏi đối với ĐDSH từ quá trình phát triển hoặc mở rộng một khu vực phát triển; sự cải thiện được dự báo trong điều kiện ĐDSH đạt được tại một địa điểm quản lý.

    Tín chỉ bảo tồn ĐDSH đại diện cho mức cải thiện ĐDSH kỳ vọng, là kết quả từ việc bảo vệ và quản lý khu bảo tồn được chủ sở hữu đất đăng ký với BCT thông qua thỏa thuận BSA. Có hai loại tín chỉ ĐDSH là tín chỉ HST và tín chỉ loài, cụ thể [2]: (1) tín chỉ đối với HST để đo lường giá trị của các HST bị đe dọa, môi trường sống của các loài bị đe dọa hay đối với các loài được dự đoán sẽ xảy ra kiểu cộng đồng thực vật; (2) tín chỉ đối với loài được áp dụng cho tất cả các loài bị đe dọa khác được phát hiện tại khu vực đó và không thể dự đoán một cách đáng tin cậy là sẽ xuất hiện trong các quần xã sinh thái đã xác định tại khu vực phát triển.

4. Ngân hàng ĐDSH và xu hướng hình thành thị trường giao dịch tín chỉ trên thế giới

    Ngân hàng ĐDSH là một cơ chế dựa vào thị trường nhằm khuyến khích sự phát triển không lấy đi hoặc tác động đến các khu vực có giá trị ĐDSH cao, đồng thời cung cấp các động lực cho tổ chức, cá nhân bảo tồn để bảo vệ các khu vực này. Sản phẩm của ngân hàng ĐDSH chính là hệ thống các tín chỉ ĐDSH cho phép nhà phát triển mua các khoản tín chỉ để đền bù cho những mất mát về ĐDSH do các dự án phát triển gây ra. Ngân hàng ĐDSH  tạo ra cơ hội hình thành thị trường giao dịch tín chỉ ĐDSH bởi nó khuyến khích các tổ chức quản lý khu bảo tồn hoặc các tổ chức, cá nhân có nguyện vọng thể đăng ký tham gia bảo tồn, cam kết nâng cao và bảo vệ các giá trị ĐDSH [5]. Khi các quy định về trách nhiệm đền bù sinh thái được áp dụng nhà đầu tư phát triển có nhu cầu mua các khoản tín chỉ ĐDSH; các nhà đầu đã hoàn thành trách nhiệm đền bù có thể bán các khoản tín chỉ của họ; Chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân quan tâm đến bảo tồn cũng có thể mua các khoản tín chỉ này. Quá trình giao dịch, trao đổi và chuyển nhượng như vậy sẽ xuất hiện người mua, người bán, người môi giới và chính là hình thành ra thị trường tín chỉ ĐDSH.

    Các khoản tín chỉ này có thể được giao dịch trên thị trường như thị trường tín chỉ các bon để tạo ra quỹ cho việc quản lý, bảo tồn ĐDSH, được sử dụng để bù đắp các tác động đối với các giá trị ĐDSH có thể xảy ra do tác động của các dự án phát triển hạ tầng và cũng có thể được bán cho những người tìm cách đầu tư vào các kết quả bảo tồn, bao gồm các tổ chức từ thiện và chính phủ. Theo cơ chế này, sẽ hình thành 2 loại giá, gồm: Giá cố định mở và giá cố định mục tiêu. Giá cố định mở được áp dụng cho các chủ sở hữu tín chỉ ĐDSH đang tham gia và các tín chỉ ĐDSH của họ đang được liệt kê trong danh sách. Giá cố định mục tiêu được sử dụng khi cơ quan bảo tồn cần mua các tín chỉ ĐDSH từ người sở hữu tín chỉ hoặc từ các chủ sở hữu đất. Một phần nhất định của phần tín chỉ được bán ra phải được trả vào quỹ quỹ chi trả bồi hoàn ĐDSH để chi trả cho phí quản lý thực địa. Số tiền còn lại được coi là lợi nhuận của tổ chức, cá nhân quản lý hoặc sở hữu khu bảo tồn hoặc khu đất cam kết tham gia vào thực hiện mục tiêu bảo tồn và họ được phép giữ lại.

    Sự tham gia có trách nhiệm của các định chế tài chính trong vấn đề môi trường nói chung và ĐDSH nói riêng sẽ tạo cơ hội để thúc đẩy hình thành ra thị trường giao dịch các tín chỉ này với đầy đủ hai cấp độ tương tự như thị trường chứng khoán gồm thị trường sơ cấp (giao dịch tín chỉ lần đầu), thị trường thứ cấp (giao dịch tín chỉ sau khi đã phát hành) theo Hình 3. Hiện nay, một số nước như Ôxtrâylia, Anh, Mỹ, Đức, Canađa, Braxin, Uganda đang thí điểm triển khai các ngân hàng ĐDSH thông qua các chương trình, dự án [7]. Thảo luận với các chuyên gia ĐDSH, chuyên gia về tài chính của một số tổ chức tài chính lớn như Triodos Bank, Dragon Capital cho thấy, đây có thể là một cơ hội tiềm năng, một giải pháp dựa vào thị trường để tạo nguồn lực từ cơ chế thị trường để đầu tư cho ĐDSH, duy trì giá trị của nhân loại và thực hiện phát triển bền vững [11]. 

31 5 23 3

Hình 3. Mô phỏng cơ chế giao dịch và hình thành thị trường tín chỉ cho bảo tồn ĐDSH

 5. Khuyến nghị về hàm ý chính sách cho Việt Nam

    Hiện nay, nhu cầu tài chính cho mục tiêu bảo tồn, duy trì và phát triển ĐDSH, HST tự nhiên ngày càng gia tăng. Theo kịch bản tối ưu do nhóm nghiên cứu Nguyễn Thị Minh Huệ và Lê Thu Hoa (2021) công bố, dự kiến về nhu cầu nguồn lực tài chính cho mục tiêu bảo tồn ĐDSH đến năm 2030 là 16.694 tỷ đồng. Đây là khoản tài chính lớn trong khi khả năng đáp ứng từ nguồn ngân sách Nhà nước cho nhu cầu hàng năm cho hệ thống khu bảo tồn mở rộng và đầu tư xây dựng cơ bản ban đầu cho các khu bảo tồn thành lập mới còn hạn hẹp [2]. Cùng với đó, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong thời gian tới. Các tác động của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phát triển cơ sở hạ tầng, khu dân cư, khu đô thị, khai thác khoáng sản… đang có những tác động đến môi trường sinh thái và ĐDSH. Bồi hoàn ĐDSH và tín chỉ ĐDSH là công cụ kinh tế góp phần thể chế hóa khoản 3 Điều 63 của Hiến pháp là “tổ chức, cá nhân gây… suy giảm ĐDSH phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại” và đồng thời phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Do vậy, Việt Nam cần nghiên cứu, thử nghiệm và hoàn thiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐDSH nói chung, đền bù sinh thái và tín chỉ ĐDSH nói chung để tạo ra nguồn tài chính bền vững đáp ứng nhu cầu bảo tồn ĐDSH, đây được xem là cơ hội trả lại cho tự nhiên, tạo ra những phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực bảo tồn ĐDSH, góp phần giữ lại giá trị cho nhân loại theo nguyên tắc của thị trường trong thời gian tới.

Lại Văn Mạnh, Nguyễn Hoàng Nam

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

    Tài liệu tham khảo

 

1. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam Khóa 12, "Luật ĐDSH," Cổng thông tin điện tử Chính phủ, 13 11 2012. [Online]. Available: http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=81137.

 

2. L. T. H. Nguyễn Thị Minh Huệ, "Đánh giá nhu cầu tài chính cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở việt nam đến năm 2030," Tạp chí môi trường, 2021.

 

3. L. M. T. Patrick ten Brink, Nature and its role:, Chiacgo: TEEB, 2012.

 

4. Niak Sian Koh, "How much of a market is involved in a biodiversity offset? A typology of biodiversity offset policies," Journal of Environmental Management, vol. 232, pp. 679-691, 2019.

 

5. I. a. E. NSW Department of Planning, "Environment, Energy and Science: Thriving, sustainable and resilient NSW," [Online]. Available: https://www.environment.nsw.gov.au/topics/animals-and-plants/biodiversity-offsets-scheme/about-the-biodiversity-offsets-scheme/what-are-biodiversity-credits. [Accessed 7 17 2021].

 

6. Nature Conservation Council of NSW, "Paradise Lost - The weakening and widening of NSW biodiversity offsetting schemes, 2005-2016," 2016.

 

7. Sasha Rodricks, "Biodiversity banking and offset scheme of," TEEB, http://teebweb.org, 2009.

 

 

 

NỘI DUNG KHÁC

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Nhân rộng và phát triển mô hình Reuse-Refill nhằm góp phần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam

2-6-2023

Mô hình tái sử dụng-tái nạp đầy (Reuse-Refill) đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, giúp hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh thông qua việc thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng, tái sử dụng hàng hóa và nguyên liệu rất quan trọng đối với một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) bền vững, nơi các sản phẩm và nguyên liệu vẫn được lưu thông, giảm áp lực lên tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Tái sử dụng, tái nạp là một dạng của mô hình kinh doanh tuần hoàn và đang ngày càng được đón nhận phổ biến trong lĩnh vực về bao bì, đóng gói thực phẩm…

Kinh tế tuần hoàn: Bài toán cho xử lý chất thải ở Việt Nam

5-6-2023

Xử lý chất thải ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải so với yêu cầu thực tiễn. Sau nhiều nỗ lực tìm phương án phù hợp để xử lý chất thải, đến nay, chôn lấp chất thải rắn (CTR) sinh hoạt vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 70% so với các biện pháp khác. Bài toán đặt ra cho thời gian tới là sử dụng chính sách nào và cơ chế gì để chất thải không còn là nỗi ám ảnh đối với chiếm dụng diện tích đất, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và bức xúc xã hội?

Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia, hướng đến thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

6-6-2023

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng.

Kinh nghiệm của Đài Loan trong công tác quản lý môi trường và bài học cho Việt Nam

7-6-2023

Tăng cường  BVMT theo phương châm phòng ngừa là chính, kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường; loại bỏ các dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng là các quan điểm, mục tiêu quan trọng và xuyên suốt đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, một trong các nhiệm vụ cấp bách hiện nay là “đẩy mạnh quản trị môi trường trong các doanh nghiệp”.

Lộ trình của Liên hợp quốc đề xuất các giải pháp cắt giảm ô nhiễm nhựa toàn cầu 

12-6-2023

(Theo UNEP) Ô nhiễm nhựa có thể giảm 80% vào năm 2040 nếu các quốc gia và công ty thực hiện những thay đổi sâu sắc về chính sách và thị trường bằng cách sử dụng các công nghệ hiện có, theo một báo cáo mới của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Báo cáo được công bố trước vòng đàm phán thứ hai tại Paris về một thỏa thuận toàn cầu nhằm đánh bại ô nhiễm nhựa, đồng thời phác thảo mức độ và bản chất của những thay đổi cần thiết để chấm dứt ô nhiễm nhựa và tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn.

Lồng ghép giảm phát thải khí nhà kính vào quy trình quản lý các dự án đầu tư

13-6-2023

Các dự án đầu tư (DAĐT) có đóng góp lớn đối với tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quy trình quản lý các dự án mới chỉ đề cập đến các vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội mà chưa quan tâm đến giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Kể từ năm 2021, Việt Nam bắt đầu thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK với cam kết đến năm 2030, sẽ giảm 9% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU). Vì vậy, việc lồng ghép các biện pháp giảm phát thải KNK trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cũng như trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành DAĐT là rất cần thiếtt, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải KNK , phát triển bền vững đất nước.

Kinh nghiệm quốc tế về chỉ số đổi mới sinh thái và bài học khuyến nghị cho Việt Nam

15-6-2023

Công tác BVMT thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo và xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, suy thoái tài nguyên diễn ra ở nhiều nơi ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, quá trình phát triển đất nước. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường nước ta thời gian qua là do quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu, còn chưa thân thiện với môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên và năng lượng, làm phát sinh nhiều chất thải. Đổi mới sinh thái (ĐMST) chính là một trong các hoạt động để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ bền vững, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

Đánh giá các mối nguy hại tác động đến chất lượng môi trường sống và đa dạng sinh học Vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An

19-6-2023

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường là một trong những phương hướng, nhiệm vụ đề ra trong định hướng của Đảng, Nhà nước về BVMT với quan điểm “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. Chất lượng môi trường sống là nền tảng quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), duy trì các chức năng và giá trị của hệ sinh thái tự nhiên trong việc đáp ứng điều kiện sinh tồn cho các loài, duy trì sự cân bằng của các hệ sinh thái (HST). Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia (VQG) Pù Mát được đánh giá là trung tâm của Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An với các giá trị dịch vụ HST có quy mô rộng lớn, nơi cung cấp nhiều dịch vụ HST quan trọng như: các dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết và văn hóa.

Đánh giá nỗ lực bảo vệ môi trường của Việt Nam thông qua Chỉ số hoạt động bảo vệ môi trường - EPI

19-6-2023

Chỉ số hoạt động môi trường (EPI) do trường Đại học Yale và Đại học Columbia (Mỹ) xây dựng năm 2006 và được áp dụng chính thức từ năm 2008 đến nay. Chỉ số EPI là tập hợp các chỉ số trong nhiều lĩnh vực khác nhau với mục đích đánh giá nỗ lực thực hiện mục tiêu về môi trường của các quốc gia, được công bố định kỳ 2 năm một lần. Bài viết tập trung đánh giá nỗ lực BVMT của Việt Nam thông qua EPI trong năm 2020.

Thực hành giảm rác thải nhựa cho công ty du lịch

20-6-2023

​​​​​​​Nhựa là một loại vật liệu hữu ích đã đóng góp rất nhiều trong việc cải thiện và thay đổi nhiều lĩnh vực, xuất hiện trong những vật dụng hàng ngày, từ bao bì bao gói sản phẩm, đồ bảo hộ lao động, đến những ứng dụng ít được biết đến hơn như các thiết bị công nghệ, điện tử, dụng cụ phòng thí nghiệm, dụng cụ y tế và các ứng dụng kỹ thuật cao. Tuy nhiên, nhựa cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và hệ lụy nặng nề cho môi trường và sức khỏe con người khi không được sử dụng đúng, thải bỏ không kiểm soát và xử lý không hợp vệ sinh.

Chỉ số Đổi mới sinh thái và đề xuất áp dụng ở Việt Nam

21-6-2023

Chỉ số Đổi mới sinh thái (ĐMST) là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến ở châu Âu và từng bước được giới thiệu áp dụng tại các nước đang phát triển ở châu Á những năm gần đây. Bài viết đề cập đến sự cần thiết của chỉ số ĐMST; các tiêu chí, các trụ cột, khung bộ chỉ số và phương pháp tính toán bộ chỉ số ĐMST cho các tỉnh, thành phố ở Việt Nam để bạn đọc tham khảo.