ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Đánh giá tổn thất và thiệt hại liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng - kinh nghiệm một số nước và hướng áp dụng cho Việt Nam

Ngày đăng: 29 | 05 | 2023

 “Tổn thất và thiệt hại” là một chủ đề mới nổi trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu (BĐKH), trong các nghiên cứu, chính sách thực hiện hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, kết nối các lĩnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai. Đánh giá tổn thất và thiệt hại bao gồm phân tích, lượng giá các tổn thất đã xảy ra trong quá khứ hoặc dự báo, ước tính các thiệt hại liên quan đến biến đổi xảy ra trong tương lai. Ngoài việc đánh giá định lượng các tổn thất và thiệt hại (TT&TH), có thể thực hiện đánh giá định tính dựa vào cộng đồng. Bài viết giới thiệu phương pháp này từ thực tiễn áp dụng một số nước và đề xuất hướng áp dụng cho Việt Nam.

1. Phương pháp đánh giá tổn thất và thiệt hại liên quan đến BĐKH

a) Khái niệm tổn thất và thiệt hại

    Tổn thất và thiệt hại là chủ đề được đề cập tới không chỉ trong Hội nghị các bên tham gia Công ước về biến đổi khí hậu (COPs) trong thời gian gần đây và cũng là sự quan tâm của nhiều tổ chức, nhà khoa học trên thế giới. “TT&TH do BĐKH gây ra được hiểu là những thiệt hại không thể tránh khỏi sau khi đã thực hiện các biện pháp giảm nhẹ và thích ứng”.

    Các TT&TH có thể là hậu quả của các hiện tượng thời tiết cực đoan (sudden-onset events) như bão, lũ…, hoặc các hiện tượng diễn biến chậm qua thời gian (slow-onset events) như nước biển dâng... TT&TH xảy ra đối với con người (như thiệt hại về sức khỏe, sinh kế…) và các hệ thống tự nhiên (như suy giảm đa dạng sinh học, hệ sinh thái…). TT&TH có thể được phân loại thành: (i) tổn thất và thiệt hại kinh tế (economic) và (ii) tổn thất và thiệt hại phi kinh tế (non-economic) (Nguyễn Trung Thắng, Ngân Ngọc Vỹ, 2018).

b) Phương pháp đánh giá TT&TH

    Đánh giá tổn thất và thiệt hại có thể dựa vào việc phân tích tổn thất đã xảy ra trong quá khứ hoặc ước tính tổn thất và thiệt hại trong tương lai (Nguyễn Trung Thắng, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, 2019). Hiện nay, nhiều quốc gia, tổ chức đã áp dụng các phương pháp, công cụ khác nhau để đánh giá TT&TH trong đó bao gồm cả các phương pháp định lượng và định tính. Đặc biệt với các quốc gia đang phát triển, dễ bị tổn thương trước tác động bất lợi của BĐKH đã áp dụng phương pháp đánh giá dựa vào cộng đồng (Van der Geest, K., Schindler, M., 2017).

    Phương pháp đánh giá dựa vào cộng đồng (methods of community-based assessment) đã thu thập dữ liệu định lượng và định tính thông qua điều tra hộ gia đình và tổ chức các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn những người có kinh nghiệm về tác động của BĐKH. Phương pháp này được coi như nguyên mẫu để đánh giá TT&TH do BĐKH dựa vào cộng đồng.

    Các khu vực/địa điểm được lựa chọn đánh giá thường là các khu vực địa lý chịu tác động của các yếu tố khí hậu (hạn hán, lũ lụt, lốc xoáy, nước biển dâng, tan băng, sa mạc hóa, thay đổi lượng mưa) và sinh kế của cộng đồng dân cư phụ thuộc vào điều kiện khí hậu (nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản). Ngoài ra cũng cần quan tâm đến các yếu tố khác như sản xuất lương thực, an ninh sinh kế, công bằng xã hội, sự di dân… Quy trình đánh giá bao gồm một số bước cơ bản sau:

(i) Nghiên cứu tổng quan được thực hiện để thu thập và phân tích tài liệu, dữ liệu thứ cấp hiện có, thông tin về BĐKH tại khu vực nghiên cứu.

(ii) Xây dựng bộ câu hỏi phỏng vấn để tìm hiểu những kinh nghiệm, hiểu biết khác nhau về tác động của BĐKH và giải pháp ứng phó của họ. Thông tin trong phiếu hỏi bao gồm: điều kiện kinh tế xã hội, thông tin cá nhân; các tác động của BĐKH; các giải pháp ứng phó, thích ứng và TT&TH.

(iii) Tổ chức điều tra, khảo sát cộng đồng địa phương, trong đó, các cuộc phỏng vấn và thảo luận nhóm tập trung được tổ chức để thu thập thêm thông tin về BĐKH, tác động đến xã hội, các giải pháp thích ứng, quan điểm và kinh nghiệm của đối tượng phỏng vấn.

(iv) Tổng hợp và phân tích kết quả của các phiếu khảo sát trên phần mềm SPSS hoặc excel.

(v) Tham vấn các bên liên quan để hoàn thiện kết quả đánh giá TT&TH.

2. Thực tiễn đánh giá tổn thất và thiệt hại dựa vào cộng đồng ở một số quốc gia

    Các trường hợp nghiên cứu đã được thực hiện tại một số quốc gia dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu như Bangladesh, Bhutan, Burkina Faso, Ethiopia, the Gambia, Kenya, Micronesia, Mozambique và Nepal để xác định mức độ tổn thất và thiệt hại của các hộ gia đình dựa trên sự tương tác giữa biến đổi khí hậu với các yếu tố như sinh kế, sức khỏe, tài sản xã hội, vật chất (Warner K., Van der Geest, K., 2013). Dưới đây, bài báo giới thiệu kết quả đánh giá TT&TH của 3 nước chính:

    Tại Bangladesh, Rabbani G và cộng sự (2013) đã thực hiện nghiên cứu đánh giá TT&TH do lốc xoáy và nước biển dâng đến sản xuất nông nghiệp ven biển Bangladesh. Nghiên cứu đã khảo sát 360 hộ dân và tập trung thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu kết hợp tham vấn cộng đồng để xác định tác động của xâm nhập mặn đối với sản xuất lúa tại các làng trong phạm vi nghiên cứu. Bảng hỏi được thiết kế để thu thập dữ liệu và thông tin về các hộ gia đình, nhận thức và hiểu biết về BĐKH, nhận thức về lịch sử mức độ mặn, tác động đến sản xuất lúa, các biện pháp thích ứng và TT&TH trong sản xuất lúa.

    Kết quả cho thấy, lốc xoáy đã làm mặn hóa đất nông nghiệp, mực nước biển dâng cao dự kiến sẽ đẩy nước mặn vào sâu hơn trong đất liền, do đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất nông nghiệp và chất lượng nước sinh hoạt ở các huyện ven biển Bangladesh. Ước tính rằng khu vực này đã giảm 0,1 triệu tấn sản lượng gạo từ năm 2008 đến năm 2010. Tổng chi phí tổn thất cho sản xuất lúa gạo do nhiễm mặn là khoảng 1,9 triệu USD từ năm 2009 đến năm 2011.

    Tại Burkina Faso, Traore và Owiyo (2013) đã nghiên cứu về TT&TH trong trồng trọt và chăn nuôi do thay đổi lượng mưa. Nghiên cứu đã khảo sát 465 hộ gia đình, thu thập thông tin về sinh kế, tính dễ bị tổn thương, các tác động và giải pháp ứng phó với hiện tượng thời tiết cực đoan, các giải pháp thích ứng…

    Kết quả cho thấy đa số (95,6%) số người được hỏi đã trải qua hạn hán cho rằng sản lượng cây trồng của họ bị ảnh hưởng, khoảng 79% số người được hỏi cho biết sản lượng cây trồng đã giảm rất nhiều trong 10 năm do hạn hán thường xuyên và lượng mưa thấp. Đối với chăn nuôi, gần một phần tư (24,7%) số hộ gia đình cho biết tỷ lệ động vật chết do hạn hán gia tăng, hầu hết trong giai đoạn 2004-2010. Đối với sức khỏe, 68,8% số người được hỏi cho biết thiếu nước uống và thực phẩm, dẫn đến suy dinh dưỡng, đa số người được hỏi cho biết họ phải giảm tiêu thụ thực phẩm do hậu quả của hạn hán. Lượng mưa thấp được coi là nguyên nhân chính của nguồn thực phẩm thiếu hụt tại địa phương (74,8% số người được hỏi), tiếp theo là vấn đề dịch hại (17,4%). Thiệt hại sản xuất cây trồng trung bình được báo cáo là từ 577$ đến 636$ cho mỗi hộ gia đình, trong khi đó, mức thiệt hại vật nuôi trung bình là từ 1.922$ đến 8.759$/người trong khu vực.

    Tại đảo Kosrae, Liên bang Micronesia (FSM), Monnereau và cộng sự (2013) thực hiện về TT&TH do xói lở bờ biển. Nghiên cứu đã phân tích các dữ liệu định lượng và định tính từ 363 hộ gia đình, 6 cuộc thảo luận nhóm, 12 cuộc phỏng vấn sâu.

    Kết quả cho thấy, đường bờ biển đã bị rút sâu và các bãi biển bị biến mất. Trong số những người đã trải qua tác động xói mòn bờ biển, 80% cho rằng nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình, chủ yếu là TT&TH về mùa màng, cây trồng và nhà cửa. Trong số những hộ bị tác động, 60% đã thực hiện các biện pháp thích ứng như xây bờ kè, trồng cây, gia cố cơ sở hạ tầng. Ngoài các giải pháp do cá nhân hộ gia đình còn có một số giải pháp do nhà nước thực hiện như việc xây dựng các công trình bảo vệ bờ biển. Tuy nhiên, 92% số người được hỏi chỉ ra rằng các biện pháp này là không đủ, dẫn đến TT&TH cho sinh kế, cơ sở hạ tầng và văn hóa. Một số TT&TH về văn hóa như xói mòn bờ biển gia tăng ảnh hưởng đến các phong tục chôn cất của cư dân, mất nhà gây ra những hậu quả không thể tránh khỏi.

    Nhìn chung, đối với các nước đang phát triển, đánh giá TT&TH là vấn đề mới và khó, phương pháp và công cụ thực hiện còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, các phương pháp đánh giá dựa vào cộng đồng thường được ưu tiên sử dụng. Hạn chế của phương pháp này là: (i) chỉ đánh giá định tính, khó định lượng; (ii) chỉ áp dụng được với những khu vực, địa bản quy mô nhỏ (huyện hoặc xã), không đại diện cho cấp quốc gia.

    Tuy nhiên, trong bối cảnh tri thức và kiến thức hiện nay về TT&TH do BĐKH, phương pháp này là khởi điểm để tiếp tục phát triển các nghiên cứu tiếp theo. Các kết quả nghiên cứu không công nhận hay phủ định bất kỳ quan điểm chính trị cụ thể nào liên quan đến TT&TH mà chủ yếu đưa ra các minh chứng, hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách khi đưa ra các quyết định/giải pháp ứng phó kịp thời. Đồng thời tính đơn giản, linh hoạt và dễ áp dụng cũng được coi là các ưu điểm của phương pháp này.

3. Định hướng áp dụng đánh giá tổn thất và thiệt hại do BĐKH dựa vào cộng đồng tại Việt Nam

a) Quy trình và phương pháp đánh giá

    Đánh giá TT&TH do BĐKH gây ra tại Việt Nam có thể định hướng áp dụng theo phương pháp đánh giá dựa vào cộng đồng với quy trình sau:

Bước 1: Nghiên cứu tổng quan; nhận diện TT&TH do BĐKH tại khu vực nghiên cứu: Cần thu thập thông tin, tài liệu về kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên, diễn biến BĐKH; các báo cáo về tình hình thiên tai, BĐKH tại khu vực nghiên cứu. Trên cơ sở đó, bước đầu nhận diện các loại hình TT&TH do BĐKH gây ra.

Bước 2: Xây dựng phiếu điều tra, khảo sát phục vụ đánh giá TT&TH: Phiếu khảo sát được thiết kế và điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu, phạm vi, đối tượng và các đặc điểm kinh tế, xã hội, sinh kế, khí hậu và môi trường của từng khu vực và loại hình TT&TH, sau đó xin ý kiến các chuyên gia và các bên liên quan để hoàn thiện và tổ chức tập huấn cho các cán bộ thực hiện phỏng vấn điều tra, khảo sát.

Bước 3: Tổ chức thực hiện khảo sát thực địa, phỏng vấn: Thực hiện phỏng vấn các cơ quan quản lý ở địa phương; khảo sát ý kiến của cộng đồng dân cư trên địa bàn theo các nội dung được chuẩn bị trong phiếu khảo sát; tổ chức thảo luận nhóm để xác định, làm rõ thêm các phát hiện từ kết quả điều tra, khảo sát.

Bước 4: Tổng hợp, xử lý thông tin: kết quả từ phiếu khảo sát được tổng hợp, phân tích dựa trên phần mềm thống kê để minh họa quan điểm, câu trả lời của các đối tượng phỏng vấn về tác động của BĐKH, TT&TH do BĐKH tại khu vực khảo sát… Báo cáo kết quả đánh giá TT&TH do BĐKH sẽ tổng hợp tất cả các loại hình TT&TH do BĐKH hoặc từng loại hình, tùy thuộc vào mục tiêu, phạm vi đánh giá.

Bước 5: Tham vấn các bên liên quan và hoàn thiện báo cáo đánh giá: Sau khi hoàn thành báo cáo, cần tham vấn các bên liên quan về kết quả đánh giá. Kết quả đánh giá là căn cứ khoa học để các cơ quan quản lý xác định mức độ TT&TH do BĐKH gây ra tại khu vực nghiên cứu, đồng thời xem xét, đầu tư các phương án ứng phó với BĐKH hiệu quả, thích hợp.

b) Các giải pháp hỗ trợ thực hiện

    Để hỗ trợ đánh giá TT&TH đạt kết quả tốt, cần triển khai một số giải pháp sau:

Giải pháp về thể chế: Xây dựng văn bản hướng dẫn đánh giá tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu, trong đó cần quy định rõ các nội dung: loại hình TT&TH, quy mô đánh giá, chỉ tiêu đánh giá, phương pháp và quy trình đánh giá; đề xuất các cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ về BĐKH nói chung và đánh giá TT&TH do BĐKH nói riêng.

Giải pháp về nhân lực: Đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có chuyên môn sâu về đánh giá TT&TH, xác minh mức độ thiệt hại; đào tạo về kỹ năng phân tích dữ liệu, các mô hình, công cụ đánh giá TT&TH.

Giải pháp về nguồn lực tài chính: Cần huy động nguồn lực tài chính từ các nguồn khác nhau (ngân sách nhà nước, hỗ trợ quốc tế) để hỗ trợ đánh giá TT&TH.

Giải pháp về cơ sở dữ liệu: Tăng cường cơ sở dữ liệu (cả về không gian và thời gian) phục vụ công tác đánh giá TT&TH ở cấp địa phương, quốc gia; đảm bảo một cơ chế chia sẻ thông tin rủi ro BĐKH cơ bản ngành và liên ngành, dần dần tích hợp các ứng dụng công nghệ để giám sát và theo dõi theo thời gian.

- Giải pháp về hợp tác quốc tế: Tăng cường hợp tác quốc tế với các Viện nghiên cứu, trường Đại học, tổ chức trong nghiên cứu, trao đổi về phương pháp, quy trình đánh giá TT&TH kinh tế và phi kinh tế; Tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả nguồn tài trợ từ cộng đồng quốc tế, doanh nghiệp để đánh giá và giải quyết các TT&TH do thiên tai, BĐKH.

Giải pháp về truyền thông: Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về biến đổi khí hậu.

4. Kết luận

    Trên cơ sở kinh nghiệm đánh giá TT&TH dựa vào cộng đồng của một số quốc gia, Việt Nam cũng có thể lựa chọn phương pháp này để đánh giá mức độ TT&TH do BĐKH để đảm bảo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cũng như bối cảnh biến đổi khí hậu trong khu vực. Trong thời gian tới, cần tiếp tục có các nghiên cứu, thử nghiệm đánh giá các loại hình TT&TH khác như tri thức bản địa, di sản văn hóa, đa dạng sinh học và hệ sinh thái hay sự thay đổi nơi cư trú của con người và áp dụng với các khu vực điển hình như vùng duyên hải miền Trung (Hội An) hoặc vùng đồng bằng sông Cửu Long (Cà Mau)…

    Bên cạnh đó, để giám sát và đánh giá TT&TH do BĐKH, cần thực hiện các giải pháp hỗ trợ về thể chế chính sách; nguồn nhân lực, vật lực; cơ sở dữ liệu; truyền thông và tăng cường hợp tác quốc tế. Đặc biệt, trong thời gian tới, cần ưu tiên xây dựng Hướng dẫn đánh giá TT&TH do BĐKH tại Việt Nam, góp phần thực hiện Quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 10/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH. 

TS. Nguyễn Trung Thắng, ThS. Nguyễn Thị Ngọc Ánh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Monnereau, I., Abraham, S., 2013. Limits to autonomous adaptation in response to coastal erosion in Kosrae, Micronesia. International Journal of Global Warming 5(4), 416-432.

2. Nguyễn Trung Thắng, Ngân Ngọc Vỹ, 2018. Tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu: những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số chuyên đề 3, tháng 9/2018

3. Nguyễn Trung Thắng, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, 2019. Một số vấn đề về tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, kỳ 1 tháng 10/2019

4. Rabbani G., Rahman A., Mainuddin K., 2013. Salinity-induced loss and damage to farming households in coastal Bangladesh

5. Traore S., Owiyo T, 2013. Dirty droughts causing loss and damage in Northern Burkina Faso. Int J Global Warm 5:498–513

6. Van der Geest, K., Schindler, M., 2017. Handbook for assessing loss and damage in vulnerable communities; Bonn: United Nations University Institute
for Environment and Human Security (UNU-EHS).

7. Warner K., Van der Geest, K., 2013. Loss and damage from climate change: local-level evidence from nine vulnerable countries

NỘI DUNG KHÁC

Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề cần cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái rừng

30-5-2023

Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm.

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

31-5-2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Nhân rộng và phát triển mô hình Reuse-Refill nhằm góp phần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam

2-6-2023

Mô hình tái sử dụng-tái nạp đầy (Reuse-Refill) đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, giúp hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh thông qua việc thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng, tái sử dụng hàng hóa và nguyên liệu rất quan trọng đối với một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) bền vững, nơi các sản phẩm và nguyên liệu vẫn được lưu thông, giảm áp lực lên tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Tái sử dụng, tái nạp là một dạng của mô hình kinh doanh tuần hoàn và đang ngày càng được đón nhận phổ biến trong lĩnh vực về bao bì, đóng gói thực phẩm…

Kinh tế tuần hoàn: Bài toán cho xử lý chất thải ở Việt Nam

5-6-2023

Xử lý chất thải ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải so với yêu cầu thực tiễn. Sau nhiều nỗ lực tìm phương án phù hợp để xử lý chất thải, đến nay, chôn lấp chất thải rắn (CTR) sinh hoạt vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 70% so với các biện pháp khác. Bài toán đặt ra cho thời gian tới là sử dụng chính sách nào và cơ chế gì để chất thải không còn là nỗi ám ảnh đối với chiếm dụng diện tích đất, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và bức xúc xã hội?

Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia, hướng đến thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

6-6-2023

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng.

Kinh nghiệm của Đài Loan trong công tác quản lý môi trường và bài học cho Việt Nam

7-6-2023

Tăng cường  BVMT theo phương châm phòng ngừa là chính, kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường; loại bỏ các dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng là các quan điểm, mục tiêu quan trọng và xuyên suốt đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, một trong các nhiệm vụ cấp bách hiện nay là “đẩy mạnh quản trị môi trường trong các doanh nghiệp”.

Lộ trình của Liên hợp quốc đề xuất các giải pháp cắt giảm ô nhiễm nhựa toàn cầu 

12-6-2023

(Theo UNEP) Ô nhiễm nhựa có thể giảm 80% vào năm 2040 nếu các quốc gia và công ty thực hiện những thay đổi sâu sắc về chính sách và thị trường bằng cách sử dụng các công nghệ hiện có, theo một báo cáo mới của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Báo cáo được công bố trước vòng đàm phán thứ hai tại Paris về một thỏa thuận toàn cầu nhằm đánh bại ô nhiễm nhựa, đồng thời phác thảo mức độ và bản chất của những thay đổi cần thiết để chấm dứt ô nhiễm nhựa và tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn.

Lồng ghép giảm phát thải khí nhà kính vào quy trình quản lý các dự án đầu tư

13-6-2023

Các dự án đầu tư (DAĐT) có đóng góp lớn đối với tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quy trình quản lý các dự án mới chỉ đề cập đến các vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội mà chưa quan tâm đến giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Kể từ năm 2021, Việt Nam bắt đầu thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK với cam kết đến năm 2030, sẽ giảm 9% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU). Vì vậy, việc lồng ghép các biện pháp giảm phát thải KNK trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cũng như trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành DAĐT là rất cần thiếtt, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải KNK , phát triển bền vững đất nước.

Kinh nghiệm quốc tế về chỉ số đổi mới sinh thái và bài học khuyến nghị cho Việt Nam

15-6-2023

Công tác BVMT thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo và xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, suy thoái tài nguyên diễn ra ở nhiều nơi ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, quá trình phát triển đất nước. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường nước ta thời gian qua là do quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu, còn chưa thân thiện với môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên và năng lượng, làm phát sinh nhiều chất thải. Đổi mới sinh thái (ĐMST) chính là một trong các hoạt động để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ bền vững, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

Đánh giá các mối nguy hại tác động đến chất lượng môi trường sống và đa dạng sinh học Vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An

19-6-2023

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường là một trong những phương hướng, nhiệm vụ đề ra trong định hướng của Đảng, Nhà nước về BVMT với quan điểm “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. Chất lượng môi trường sống là nền tảng quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), duy trì các chức năng và giá trị của hệ sinh thái tự nhiên trong việc đáp ứng điều kiện sinh tồn cho các loài, duy trì sự cân bằng của các hệ sinh thái (HST). Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia (VQG) Pù Mát được đánh giá là trung tâm của Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An với các giá trị dịch vụ HST có quy mô rộng lớn, nơi cung cấp nhiều dịch vụ HST quan trọng như: các dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết và văn hóa.

Đánh giá nỗ lực bảo vệ môi trường của Việt Nam thông qua Chỉ số hoạt động bảo vệ môi trường - EPI

19-6-2023

Chỉ số hoạt động môi trường (EPI) do trường Đại học Yale và Đại học Columbia (Mỹ) xây dựng năm 2006 và được áp dụng chính thức từ năm 2008 đến nay. Chỉ số EPI là tập hợp các chỉ số trong nhiều lĩnh vực khác nhau với mục đích đánh giá nỗ lực thực hiện mục tiêu về môi trường của các quốc gia, được công bố định kỳ 2 năm một lần. Bài viết tập trung đánh giá nỗ lực BVMT của Việt Nam thông qua EPI trong năm 2020.