ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước ở Việt Nam

Ngày đăng: 25 | 05 | 2023

Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước (ĐNN), chiếm 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái (HST) ĐNN tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, các khu rừng ngập mặn, các vùng ĐNN ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học (ĐDSH). Tuy nhiên, chất lượng ĐDSH các HST ĐNN của nước ta đang đối mặt với nguy cơ suy thoái ngày một nghiêm trọng, đặc biệt là các HST vùng triều, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cùng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm đang bị giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và quy mô diện tích phân bố. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về việc đánh giá suy thoái HST ĐNN, từ đó đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái HST ĐNN có thể áp dụng tại Việt Nam.

Suy thoái HST

    Thuật ngữ về suy thoái HST được nêu trong nhiều văn bản có tầm quan trọng quốc tế. Cụ thể, mục tiêu Aichi về ĐDSH được Ủy ban Môi trường Liên hợp quốc xây dựng và thông qua các quốc gia thành viên năm 2010 đã nêu: “Đến năm 2020, khả năng phục hồi của HST và sự đóng góp của ĐDSH vào trữ lượng các-bon đã được nâng cao, thông qua bảo tồn và phục hồi, bao gồm phục hồi ít nhất 15% HST bị suy thoái, góp phần vào khí hậu giảm thiểu và thích ứng với thay đổi và chống sa mạc hóa”[1]. Thông cáo Thập kỷ 2021-2030 về phục hồi HST của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 1/3/2019 [5] cũng đề xuất việc mở rộng quy mô phục hồi các HST bị suy thoái như một giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường an ninh lương thực, cung cấp nước và bảo tồn ĐDSH trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù các mục tiêu trên được đưa ra khó rõ ràng nhưng nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra những khó khăn, thách thức trong việc xác định chính xác trạng thái suy thoái HST [5].

    Để tiếp cận trong đánh giá suy thoái hệ sinh thái, một vài phương pháp hiện đại liên hệ chặt chẽ giữa suy thoái hệ sinh thái với sự suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái [4]. Theo cách tiếp cận này, suy thoái hệ sinh thái là sự suy giảm liên tục khả năng cung cấp các dịch vụ của hệ sinh thái bao gồm: a) Sự suy giảm các dịch vụ cung cấp, sản lượng các sản phẩm của hệ sinh thái (sản phẩm gỗ từ rừng, sản lượng thủy sản từ HST sông, hồ, biển…); b) Giảm lợi ích thu được từ dịch vụ điều chỉnh và hỗ trợ như dịch vụ giữ và điều tiết nước của HST rừng; c) Sự thay đổi trong các đặc điểm của hệ sinh thái làm giảm khả năng cung cấp các dịch vụ văn hóa ví dụ như đối với các khu vực rừng thiêng, khu rừng văn hóa, tín ngưỡng… Tuy nhiên, tiếp cận này được cho là còn hạn chế do chưa có phương pháp toàn diện tính toán được đầy đủ tất cả giá trị của tất cả dịch vụ của hệ sinh thái, đặc biệt là các dịch vụ không quy đổi được.

    Tiếp cận đánh giá hệ sinh thái trong phục hồi hệ sinh thái cũng là cách tiếp cận phổ biến. Phục hồi hệ sinh thái được hiểu như là quá trình hỗ trợ việc hồi phục của một hệ sinh thái đã bị thoái hóa, tổn thương hoặc phá hủy. Khi thực hiện phục hồi, phải xây dựng các tiêu chí và thực hiện phục hồi được tất cả các tiêu chí để có thể đưa HST trở về một trạng thái mong muốn. Với cách tiếp cận này, nhà khoa học cần đánh giá trạng thái hệ sinh thái tại thời điểm bị suy thoái và đánh giá trạng thái hệ sinh thái mong muốn.

    Gần đây, nhiều nhà khoa học và quản lý áp dụng tiếp cận đánh giá suy thoái hệ sinh thái dựa trên đánh giá rủi ro sụp đổ hệ sinh thái theo hướng dẫn của Tổ Chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế -IUCN [2]. IUCN xác định khung đánh giá các biểu hiện đánh giá HST sụp đổ theo 4 loại nhóm tiêu chí chính bao gồm (A): sự giảm diện tích và phân mảnh hst dẫn đến giảm sức chịu tải hay khả năng mang của quần xã sinh vật; (B) sự suy thoái môi trường sống làm giảm chất lượng và sự đa dạng của hệ sinh vật; (C) Sự phá vỡ các quy trình sinh thái; (D) Sự tương tác qua lại giữa các thành phần và chức năng của HST. Phương pháp đánh giá này này được cho là khá toàn diện vì đã tiếp cận theo khung khái niệm về hệ sinh thái và các thành ơhaanf hệ sinh thái và đã có nhiều nghiên cứu áp dụng thử nghiệm đối với nhiều kiểu loại HST khác nhau [2].

Đánh giá Suy thoái HST ĐNN

    Ban thư ký công ước về bảo tồn các vùng ĐNN quan trọng (Công ước Ramsar) đã thực hiện nhiều nghiên cứu nhằm xác định sự suy thoái ĐNN. Theo đó, các nghiên cứu đã đưa ra khái niệm Suy thoái ĐNN là sự suy giảm các chức năng của ĐNN do hoạt động của con người[1]. Ngoài ra, trong tài liệu hướng dẫn Quản lý ĐNN của Ban Thư ký công ước [1] đã đưa ra định nghĩa về “đặc tính sinh thái” và “thay đổi đặc tính sinh thái” của khu ĐNN. Những biến đổi về đặc tính sinh thái nằm ngoài dải biến động tự nhiên có thể là dấu hiệu cảnh báo rằng khu DNN đã bị sử dụng quá mức hoặc bị tác động xấu từ bên ngoài, dẫn tới sự suy thoái các quá trình tự nhiên, và cuối cùng là phá vỡ các chức năng thủy văn, sinh học và sinh thái của khu vực. Theo hướng dẫn của Công ước, việc đánh giá đặc tính sinh thái HST ĐNN cần đánh giá về: (i) thành phần vô sinh của HST bao gồm môi trường nước, đất, trầm tích, chế độ khí hậu, thủy văn, diện tích, các kiểu sinh cảnh và kết nối sinh cảnh… Đối với thành phần sinh vật cần đánh giá cấu trúc, thành phần các loài động vật, thực vật; thành phần các loài chính của HST. Ngoài ra, đặc tính sinh thái của khu ĐNN còn phải bao gồm các quá trình sinh thái và các dịch vụ HST ĐNN bao gồm bốn dịch vụ chủ yếu như sau: (i) Dịch vụ Cung cấp (gồm các sản phẩm thu được từ hệ sinh thái như thực phẩm, nhiên liệu và nước ngọt); (ii) Dịch vụ điều tiết (bao gồm các lợi ích thu được từ việc điều chỉnh các quá trình của hệ sinh thái như điều hòa khí hậu, điều tiết nước và điều tiết tai biến thiên nhiên); (iii) Dịch vụ văn hóa (là những lợi ích mà con người có được thông qua việc bồi bổ tinh thần, giải trí, giáo dục và thẩm mỹ); Và (IV) Dịch vụ hỗ trợ (là các dịch vụ cần thiết cho việc sản xuất tất cả các dịch vụ hệ sinh thái khác như chu trình tuần hoàn nước, chu trình dinh dưỡng và môi trường sống cho quần thể sinh vật).

Đề xuất các tiêu chí khung đánh giá mức độ suy thoái của các HST ĐNN ở Việt Nam

    Từ thực tiễn các nghiên cứu trên thế giới, có thể thấy, việc đánh giá mức độ suy thoái của HST nói chung và HST ĐNN nói riêng có thể dựa trên nhiều khía cạnh khác nhau, tùy theo mục tiêu đánh giá. Tuy nhiên, các nghiên cứu có tính toàn diện thường cần tiếp cận đánh giá theo các khung khái niệm về các thành phần, cấu trúc chính của HST, đó là (1) Các thành phần vô sinh và môi trường (2) Sự đa dạng và đặc thù của hệ sinh vật và (3) Các mối tương tác qua lại giữa hệ sinh vật và môi trường. Tùy vào đặc thù các thành phần của hệ sinh thái, kỹ thuật sử dụng cũng như nguồn số liệu mà sau đó, mỗi kiểu loại HST lại được đánh giá bởi các chỉ tiêu hay yếu tố chi tiết khác nhau.

    Ở Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa đưa ra khái niệm và đánh giá về suy thoái HST nói chung và suy thoái HST ĐNN nói riêng. Riêng đánh giá đối với HST rừng, Bộ NN&PTNT hiện đang hướng dẫn xác định rừng tự nhiên suy thoái theo mức nghèo, nghèo kiệt, rừng không có trữ lượng và dựa trên chỉ tiêu cơ bản là trữ lượng gỗ rừng. Tuy nhiên, các chỉ tiêu đánh giá HST rừng hiện đang tập trung vào đặc điểm của hệ thực vật mà chưa bao gồm các thành phần khác của HST, do đó, khó áp dụng đối với các HST khác.

    Trên cơ sở khái niệm suy thoái môi trường đã được quy định trong Luật BVMT [3] là “sự suy giảm về chất lượng, số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, sinh vật và tự nhiên”. Gắn với khái niệm suy thoái HST ĐNN được công nhận bởi Công ước Ramsar, theo đó, suy thoái HST ĐNN là sự suy giảm các chức năng của ĐNN do hoạt động của con người[1]. Với cách hiểu như vậy, nghiên cứu này đề xuất nội hàm của suy thoái hệ sinh thái ĐNN ở Việt Nam sẽ gắn liền với sự suy giảm về chất lượng, số lượng thành phần/cấu trúc HST, đồng thời tác động của sự suy giảm đó làm giảm các các dịch vụ của HST, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật và tự nhiên đến con người và sinh vật. Với nội hàm đó, nghiên cứu này đề xuất việc đánh giá suy thoái ĐNN phải bao gồm bốn tiêu chí chính sau:

(1) Tiêu chí về sự suy giảm số lượng, chất lượng các thành phần vô sinh (yếu tố phi sinh vật) của HST ĐNN

    Đối với HST ĐNN, ngoài các thành phần cơ bản như đất và nước, các đặc điểm khí hậu và địa mạo, định hình ảnh hưởng đến các đặc điểm của vùng ĐNN. Thông qua lượng mưa, bốc hơi và thoát hơi nước, khí hậu ảnh hưởng đến dòng chảy bề mặt, nước ngầm, thủy văn và sự biến đổi thủy văn của các vùng ĐNN. Địa chất ảnh hưởng đến địa mạo của khu vực, do đó ảnh hưởng đến nguồn nước; kích thước, hình dạng và vị trí; tính chất hóa lý; và các loại đất của vùng ĐNN. Với các đặc điểm như vậy, tiêu chí về sự suy thoái các thành phần vô sinh của HST ĐNN cần đánh giá: (i) Sự suy giảm chất lượng môi trường đất/trầm tích đáy của HST; (ii) Sự suy giảm chất lượng môi trường nước của HST; (iii) Tác động của chế độ khí hậu, thủy văn, địa chất, địa mạo làm suy giảm chất lượng, số lượng thành phần đất và nước của HST.

(2) Tiêu chí về sự suy giảm số lượng, chất lượng các thành phần hữu sinh hay quần xã sinh vật của HST ĐNN

    Thành phần hữu sinh của HST bao gồm hệ thực vật, hệ động vật và các vi sinh vật. Đối với HST ĐNN, có sự đa dạng rất cao các kiểu loại HST và đa dạng các loài sinh vật đối với mỗi kiểu HST. Nhìn chung, theo hướng dẫn của Công ước Ramsar về việc đánh giá đặc tính sinh thái của một HST ĐNN, khi đánh giá hệ sinh vật cần xem xét các yếu tố chính (i) hệ thực vật ĐNN; (ii) Hệ động vật có xương sống (ví dụ: cá, lưỡng cư, bò sát, chim nước, động vật có vú); (iii) Thực vật phù du, bao gồm tảo cát; (iv) Động vật không xương sống thủy sinh

(3) Tiêu chí về suy thoái các quá trình sinh thái hay chính là tương tác giữa các thành phần của HST ĐNN

    Khi một HST bị giảm diện tích hoặc phân mảnh có thể đe dọa sự toàn vẹn của hệ thống hoặc dẫn đến giảm sức chịu tải hay khả năng mang của quần xã sinh vật. Ngoài ra, những tác động cộng gộp từ sự suy giảm từng chức năng, thành phần của HST cũng dẫn những trạng thái trung gian trong quá trình suy thoái của HST. Do đó, trong tiêu chí này cần đánh giá được các vấn đề sau: (i) Sự suy giảm diện tích hay phân mảnh HST dẫn đến giảm sức chịu tải hay khả năng mang của quần xã sinh vật; (ii) Các tác động cộng gộp đe dọa sự tồn tại của HST.

Kết luận

    Dựa trên tiếp cận phân tích nội hàm khái niệm về hệ sinh thái và suy thoái môi trường đã được quy định tại Việt Nam, nghiên cứu này đã đề xuất cần đánh giá suy thoái HST ĐNN tại Việt Nam theo 3 nhóm tiêu chí về (i) sự suy giảm số lượng, chất lượng các thành phần vô sinh của HST; (ii) Sự suy giảm số lượng, chất lượng các thành phần hữu sinh hay quần xã sinh vật của HST; và (iii) Sự suy thoái các quá trình sinh thái hay chính là tương tác giữa các thành phần của HST. Tùy vào đặc thù các thành phần của hệ sinh thái, kỹ thuật sử dụng cũng như nguồn số liệu đánh giá, mỗi kiểu loại HST ĐNN cần được đánh giá bởi các chỉ tiêu hay yếu tố chi tiết khác nhau.  

    Bài viết được hoàn thành dựa trên kết quả nghiên cứu của Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, xây dựng bộ tiêu chí và hướng dẫn đánh giá mức độ suy thoái của HST ĐNN ở Việt Nam” Mã số: TNMT 2020.04.02.

Vũ Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Thu Hà

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 12/2022)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Thư ký Công ước Ramsar, 2010. Sổ tay số 18: Quản lý ĐNN, Khung quản lý các vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế và các vùng ĐNN khác.

2. Bland, L. K. (2017). Guidelines for the application of IUCN Red List of Ecosystems Categories and Criteria, Version 1.1. Gland, Switzerland: IUCN. ix + 99pp.

3. Luật Bảo vệ môi trường 2020 số 72/2020/QH14 ngày 17 tháng 11 năm 2020.

4. Millennium Ecosystem Assessment, 2005. Ecosystems and Human Well-being: Synthesis. Island Press, Washington, DC.

5. UN, New UN Decade on Ecosystem Restoration offers unparalleled opportunity for job creation, food security and addressing climate change; https://www.unenvironment.org/news-and-stories/press-release/new-un-decade-ecosystem-restoration-offers-unparalleled-opportunity.

 

NỘI DUNG KHÁC

Đánh giá tổn thất và thiệt hại liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng - kinh nghiệm một số nước và hướng áp dụng cho Việt Nam

29-5-2023

 “Tổn thất và thiệt hại” là một chủ đề mới nổi trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu (BĐKH), trong các nghiên cứu, chính sách thực hiện hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, kết nối các lĩnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai. Đánh giá tổn thất và thiệt hại bao gồm phân tích, lượng giá các tổn thất đã xảy ra trong quá khứ hoặc dự báo, ước tính các thiệt hại liên quan đến biến đổi xảy ra trong tương lai. Ngoài việc đánh giá định lượng các tổn thất và thiệt hại (TT&TH), có thể thực hiện đánh giá định tính dựa vào cộng đồng. Bài viết giới thiệu phương pháp này từ thực tiễn áp dụng một số nước và đề xuất hướng áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề cần cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái rừng

30-5-2023

Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm.

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

31-5-2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Nhân rộng và phát triển mô hình Reuse-Refill nhằm góp phần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam

2-6-2023

Mô hình tái sử dụng-tái nạp đầy (Reuse-Refill) đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, giúp hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh thông qua việc thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng, tái sử dụng hàng hóa và nguyên liệu rất quan trọng đối với một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) bền vững, nơi các sản phẩm và nguyên liệu vẫn được lưu thông, giảm áp lực lên tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Tái sử dụng, tái nạp là một dạng của mô hình kinh doanh tuần hoàn và đang ngày càng được đón nhận phổ biến trong lĩnh vực về bao bì, đóng gói thực phẩm…

Kinh tế tuần hoàn: Bài toán cho xử lý chất thải ở Việt Nam

5-6-2023

Xử lý chất thải ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải so với yêu cầu thực tiễn. Sau nhiều nỗ lực tìm phương án phù hợp để xử lý chất thải, đến nay, chôn lấp chất thải rắn (CTR) sinh hoạt vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 70% so với các biện pháp khác. Bài toán đặt ra cho thời gian tới là sử dụng chính sách nào và cơ chế gì để chất thải không còn là nỗi ám ảnh đối với chiếm dụng diện tích đất, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và bức xúc xã hội?

Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia, hướng đến thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

6-6-2023

Kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu thế tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên ngày càng suy thoái, cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu diễn biến khốc liệt. KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. KTTH có thể giữ cho dòng vật chất được sử dụng lâu nhất có thể, khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi vòng sản xuất hay tiêu dùng.

Kinh nghiệm của Đài Loan trong công tác quản lý môi trường và bài học cho Việt Nam

7-6-2023

Tăng cường  BVMT theo phương châm phòng ngừa là chính, kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường; loại bỏ các dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng là các quan điểm, mục tiêu quan trọng và xuyên suốt đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, một trong các nhiệm vụ cấp bách hiện nay là “đẩy mạnh quản trị môi trường trong các doanh nghiệp”.

Lộ trình của Liên hợp quốc đề xuất các giải pháp cắt giảm ô nhiễm nhựa toàn cầu 

12-6-2023

(Theo UNEP) Ô nhiễm nhựa có thể giảm 80% vào năm 2040 nếu các quốc gia và công ty thực hiện những thay đổi sâu sắc về chính sách và thị trường bằng cách sử dụng các công nghệ hiện có, theo một báo cáo mới của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Báo cáo được công bố trước vòng đàm phán thứ hai tại Paris về một thỏa thuận toàn cầu nhằm đánh bại ô nhiễm nhựa, đồng thời phác thảo mức độ và bản chất của những thay đổi cần thiết để chấm dứt ô nhiễm nhựa và tạo ra một nền kinh tế tuần hoàn.

Lồng ghép giảm phát thải khí nhà kính vào quy trình quản lý các dự án đầu tư

13-6-2023

Các dự án đầu tư (DAĐT) có đóng góp lớn đối với tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, quy trình quản lý các dự án mới chỉ đề cập đến các vấn đề môi trường tự nhiên và xã hội mà chưa quan tâm đến giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Kể từ năm 2021, Việt Nam bắt đầu thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK với cam kết đến năm 2030, sẽ giảm 9% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU). Vì vậy, việc lồng ghép các biện pháp giảm phát thải KNK trong báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), cũng như trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành DAĐT là rất cần thiếtt, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam về giảm phát thải KNK , phát triển bền vững đất nước.

Kinh nghiệm quốc tế về chỉ số đổi mới sinh thái và bài học khuyến nghị cho Việt Nam

15-6-2023

Công tác BVMT thời gian qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo và xác định là một trong ba trụ cột phát triển bền vững. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, suy thoái tài nguyên diễn ra ở nhiều nơi ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, quá trình phát triển đất nước. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường nước ta thời gian qua là do quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu, còn chưa thân thiện với môi trường, tiêu tốn nhiều tài nguyên và năng lượng, làm phát sinh nhiều chất thải. Đổi mới sinh thái (ĐMST) chính là một trong các hoạt động để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ bền vững, hướng tới phát triển bền vững đất nước.

Đánh giá các mối nguy hại tác động đến chất lượng môi trường sống và đa dạng sinh học Vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An

19-6-2023

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường là một trong những phương hướng, nhiệm vụ đề ra trong định hướng của Đảng, Nhà nước về BVMT với quan điểm “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”. Chất lượng môi trường sống là nền tảng quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), duy trì các chức năng và giá trị của hệ sinh thái tự nhiên trong việc đáp ứng điều kiện sinh tồn cho các loài, duy trì sự cân bằng của các hệ sinh thái (HST). Nằm trên dải đất miền Trung, Vườn quốc gia (VQG) Pù Mát được đánh giá là trung tâm của Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An với các giá trị dịch vụ HST có quy mô rộng lớn, nơi cung cấp nhiều dịch vụ HST quan trọng như: các dịch vụ cung cấp, dịch vụ điều tiết và văn hóa.