ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Huy động nguồn lực thực hiện NDC: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Ngày đăng: 19 | 05 | 2023

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trở thành thách thức chung của toàn nhân loại. Nỗ lực để hạn chế các nguyên nhân gây ra BĐKH là trách nhiệm của mỗi quốc gia, lĩnh vực và cá nhân. Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực để chủ động ứng phó với BĐKH thông qua việc triển khai đồng thời hoạt động thích ứng, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK). Quyết tâm, cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế chống lại BĐKH được thể hiện thông qua Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2020 và đệ trình Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC).

    Là quốc gia đang phát triển và chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong triển khai thực hiện các hành động giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với tác động của BĐKH. Bài viết có mục đích tổng hợp, phân tích các nguồn lực hỗ trợ thực hiện các hành động khí hậu trên thế giới (nguồn lực tài chính, kỹ thuật, khoa học và công nghệ…) và kinh nghiệm quốc tế trong việc huy động, tiếp cận các nguồn lực này cho thực hiện NDC của Việt Nam.

        1. Đặt vấn đề

    Là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do BĐKH (GermanWatch 2020), để hạn chế tác động của BĐKH, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các diễn đàn, hoạt động, cam kết quốc tế về giảm nhẹ và ứng phó với BĐKH. Việt Nam là một trong 20 quốc gia đầu tiên gửi Báo cáo NDC cập nhật (Báo cáo) đến UNFCCC vào tháng 9/2020.

    Báo cáo đề ra mục tiêu về giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với BĐKH phù hợp với hiện trạng, dự báo phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) của đất nước đến năm 2030. Cụ thể, về giảm nhẹ phát thải KNK, Báo cáo đưa ra mục tiêu bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2020, Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) và mức giảm sẽ tăng lên 27% khi có các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế thông qua Thỏa thuận hợp tác song phương, đa phương và thực hiện cơ chế mới theo Thỏa thuận Paris về BĐKH. Đối với thích ứng với BĐKH, Báo cáo đã xác định 3 nhóm nhiệm vụ chiến lược gồm: Nâng cao hiệu quả thích ứng thông qua việc tăng cường quản lý nhà nước và nguồn lực; Tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng cho cộng đồng, các thành phần kinh tế và các hệ sinh thái; Giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với thiên tai, khí hậu cực đoan gia tăng do BĐKH.

    Tuy nhiên, để triển khai thực hiện thành công các nội dung đã đề ra ở NDC cập nhật, Việt Nam cần huy động các nguồn lực tài chính, kỹ thuật và nhân lực khác nhau. Vì thế, việc tiếp cận và huy động các nguồn lực hỗ trợ ứng phó BĐKH là cần thiết đối với Việt Nam. Bài viết cung cấp kinh nghiệm quốc tế trong việc huy động nguồn lực để thực hiện các hành động khí hậu nói chung, cũng như các nội dung đề ra trong NDC nói riêng, từ đó đề xuất một số định hướng, giải pháp cho Việt Nam.

    2. Tổng quan về các nguồn lực hỗ trợ ứng phó BĐKH

    Trong các khuôn khổ hợp tác quốc tế nhằm thực hiện NDC và Chương trình Nghị sự 2030, hợp tác Nam - Nam, Bắc - Nam, ba bên và đa phương được sử dụng như một công cụ, diễn đàn hữu hiệu để các quốc gia cùng hợp tác, hỗ trợ nhau nhằm đạt được mục tiêu chung là giảm phát thải KNK, thích ứng với BĐKH song song với phát triển KT - XH một cách bền vững. Trong đó:

    Hợp tác Nam - Nam: được biết đến và sử dụng để chia sẻ nguồn lực tài chính, kỹ thuật và tri thức giữa các quốc gia đang phát triển (thường là các quốc gia ở Nam bán cầu) (UNOSSC, 2018).

    Hợp tác Bắc - Nam: là khuôn khổ hợp tác phát triển chung giữa miền Bắc (các quốc gia phát triển) và miền Nam (các quốc gia đang phát triển) trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và kỹ thuật (UCLG-ASPAC, 2016).

    Hợp tác ba bên (North-South-South): là hợp tác trong đó, các quốc gia tài trợ truyền thống (những quốc gia ở phía Bắc) và các tổ chức đa phương tạo điều kiện để các sáng kiến trong khuôn khổ hợp tác Nam - Nam được cung cấp tài trợ, đào tạo, quản lý và chuyển giao công nghệ.

    Hợp tác đa phương đề cập đến các ràng buộc, hoặc mối quan hệ giữa hai, hay nhiều quốc gia mà không có sự phân biệt vai trò, hoặc phân biệt đối xử giữa những quốc gia có liên quan.

    2.1. Nguồn tài chính khí hậu

    Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) điều phối dòng tài chính khí hậu thông qua 2 kênh chính: (1) Sáng kiến tài chính (SKTC), tập trung vào việc hỗ trợ các tổ chức tài chính khu vực tư nhân bao gồm ngân hàng, nhà đầu tư và doanh nghiệp bảo hiểm trong việc giảm thiểu rủi ro khí hậu, nắm bắt cơ hội thương mại từ hành động khí hậu hướng tới thực hiện các biện pháp cần thiết để điều chỉnh tổng thể danh mục đầu tư cho giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với BĐKH nhằm đạt được mục tiêu của Thỏa thuận Paris; (2) Các dự án liên quan đến tài chính khí hậu, tập trung vào việc hỗ trợ các quốc gia đang phát triển tiếp cận nguồn tài chính khí hậu (trực tiếp và thông qua các tổ chức được công nhận) như Quỹ Khí hậu Xanh, Quỹ Môi trường oàn cầu và Quỹ Thích ứng, cũng như thông qua các nguồn công khai song phương, hoặc đa phương khác.

    a) Sáng kiến tài chính (SKTC)

    SKTC thuộc UNEP FI là thiết chế quan hệ đối tác toàn cầu được thiết lập giữa UNEP và tổ chức tài chính vào năm 1992, sau Hội nghị thượng đỉnh Trái đất tại Rio de Janeiro, Braxin. UNEP FI bao gồm 215 thành viên từ các tổ chức tài chính và 41 tổ chức hỗ trợ (UNEP FI, n.d.). Các thành viên của SKTC của UNEP chủ yếu là các ngân hàng, nhà đầu tư và công ty bảo hiểm.

    SKTC có chiến lược thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân và thiết chế tài chính toàn cầu, cũng như khuyến khích việc thực hiện tốt hơn các nguyên tắc bền vững ở tất cả các cấp độ hoạt động của các tổ chức tài chính. Trọng tâm của sáng kiến cũng là truyền cảm hứng cho các thành viên đưa các vấn đề về môi trường, xã hội và quản trị vào các mối quan hệ và giao dịch với khách hàng. SKTC của UNEP được biết đến với sứ mệnh hỗ trợ trong việc tạo điều kiện và định hình tương tác giữa các đối tác khác nhau trong nỗ lực giải quyết vấn đề môi trường và BĐKH.

    b) Các quỹ tài chính khí hậu

    - Quỹ Khí hậu Xanh (GCF): Ra đời trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris, là quỹ khí hậu lớn nhất thế giới, được giao nhiệm vụ hỗ trợ các quốc gia đang phát triển nâng cao và hiện thực hóa tham vọng đề ra trong NDC, hướng tới mục đích phát triển phát thải thấp, thích ứng với khí hậu.

    Để xin tài trợ từ GFC, các tổ chức cấp địa phương, quốc gia và khu vực cần trải qua quy trình 5 bước: Tự đánh giá, nộp đơn xin xét duyệt dự án/chương trình, đánh giá bởi ban thư ký GCF, quyết định bởi hội đồng và cuối cùng là tiến hành các thỏa thuận pháp lý. Đơn xin xét duyệt dự án/chương trình được GCF tiếp nhận trên cơ sở luân phiên, không có thời hạn nộp đơn đăng ký xin xét duyệt dự án/chương trình như một số Quỹ khác.

    - Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF): Được thành lập trước thời điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Trái đất Rio năm 1992, với sự hợp nhất 184 quốc gia trong quan hệ đối tác với các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội dân sự (CSO) và khu vực tư nhân để giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách toàn cầu, đồng thời hỗ trợ các sáng kiến phát triển bền vững quốc gia. Kể từ năm 1992, GEF đã cung cấp gần 20,5 tỷ USD viện trợ không hoàn lại và huy động hơn 112 tỷ USD đồng tài trợ cho hơn 4.800 dự án tại 170 quốc gia, vùng lãnh thổ. Thông qua Chương trình Tài trợ nhỏ (SGP), GEF đã hỗ trợ gần 24.000 sáng kiến cho cộng đồng và các CSO tại 133 quốc gia (GEF, 2021).

    Là tổ chức tài chính hoạt động độc lập, GEF cung cấp tài trợ cho các dự án liên quan đến đa dạng sinh học, BĐKH, vùng biển quốc tế, suy thoái đất, suy giảm tầng ôzôn, loại bỏ chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP), thủy ngân, quản lý rừng bền vững, an ninh lương thực, thành phố bền vững.

    - Quỹ Thích ứng (AF): Được thành lập để tài trợ cho các dự án và chương trình thích ứng cụ thể tại các quốc gia đang phát triển là thành viên của Nghị định thư Kyoto và đặc biệt là các quốc gia dễ bị tổn thương bởi tác động tiêu cực của BĐKH. Từ năm 2010, Quỹ đã hỗ trợ hơn 28 triệu người hưởng lợi (Adaptation Fund, 2021). Quỹ đi tiên phong trong cơ chế tiếp cận trực tiếp, trao quyền cho các quốc gia tiếp cận nguồn vốn và phát triển các dự án trực tiếp thông qua các đơn vị thực hiện quốc gia được công nhận.

    Quá trình xét duyệt của Quỹ Thích ứng nhằm đảm bảo đơn vị tuân thủ các tiêu chuẩn về ủy thác và bảo vệ trong khi tiếp cận các nguồn tài chính của Quỹ. Quá trình xét duyệt gồm 5 bước chính: Đề xuất ý tưởng, đăng ký, sàng lọc bởi Ban Thư ký của Hội đồng quản lý Quỹ, xem xét bởi Hội đồng xét duyệt, khuyến nghị của Ban Xét duyệt (Adaptation Fund, 2020). Hội đồng Quỹ Thích ứng chấp nhận và xem xét các đề xuất dự án định kỳ 3 lần/năm và chương trình thích ứng ưu tiên tài trợ. Thời hạn nộp ý tưởng đề xuất dự án được ghi rõ trên trên trang web chính thức của Quỹ - www.adaptationfund.org (Adaptation Fund, 2019)

    c) Nguồn tài chính song phương

    Các quỹ tài chính khí hậu nêu trên có nguồn lực dồi dào, tuy nhiên, để tiếp cận được các quỹ này thì quy trình, cũng như điều kiện xét duyệt mất nhiều thời gian và có tính cạnh tranh cao. Vì vậy, nguồn tài chính song phương có thể giải quyết các hạn chế của các quỹ khí hậu.

    Nguồn tài chính song phương do các nước phát triển hỗ trợ trực tiếp cho các quốc gia đang phát triển (hay còn gọi hợp tác Bắc - Nam). Đây được cho là nguồn lực dễ tiếp cận, trực tiếp và mang lại những đóng góp rõ rệt cho các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với tác động của BĐKH. Các nguồn tài chính này thường được tài trợ thông các cơ quan, tổ chức hợp tác phát triển của các nước phát triển tại những quốc gia đang phát triển. Ví dụ, Tổ chức GIZ của Cộng hòa Liên bang Đức, USAID của Mỹ, JICA của Nhật Bản, SIDA của Thụy Điển, Irish Aid của Ireland, AfD của Pháp, Australian Aid của Úc... Danh sách các tổ chức hợp tác phát triển của các quốc gia phát triển hỗ trợ quốc gia đang phát triển thực hiện dự án khí hậu được Ban Thư ký của UNFCCC công bố trên trang thông tin để các tổ chức địa phương, quốc gia và khu vực quan tâm có thể trực tiếp tìm hiểu.

    d) Nguồn tài chính đa phương

    Bên cạnh các nguồn tài chính song phương thì các nguồn tài chính đa phương cũng được nhắc tới trong Điều 11.5 của UNFCCC, trong đó, nhấn mạnh các bên là nước phát triển cũng có thể cung cấp và các bên là quốc gia đang phát triển tận dụng các nguồn tài chính liên quan đến việc thực hiện Công ước thông qua những kênh đa phương. Một số chương trình và dự án về BĐKH của các tổ chức tài chính đa phương là Ngân hàng Phát triển châu Phi (AfDB) với các dự án về thích ứng với BĐKH, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với các dự án về giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH, chương trình năng lượng sạch… Ngân hàng Phát triển Caribbean (CDB) với dự án về quản lý rủi ro thiên tai và BĐKH, Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB) với các dự án về hành động khí hậu trong lĩnh vực giao thông,…

    Bên cạnh đó, có một số quỹ tài chính đa phương khác như: Quỹ các-bon trong tương lai theo Sáng kiến thị trường các-bon của ADB (ADB CMI), Quỹ Năng lượng sạch châu Á (ACEF), Quỹ Đối tác kinh tế năng lượng sạch (CEFPF) ưu tiên hỗ trợ triển khai các dự án về tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo.

    2.2. Nguồn lực khoa học, công nghệ và kỹ thuật

    Trong Thỏa thuận Paris đã nhấn mạnh về nghĩa vụ của các nước phát triển trong việc hỗ trợ công nghệ kỹ thuật cho các quốc gia đang phát triển nhằm thực hiện mục tiêu chung về giảm nhẹ phát thải KNK, cũng như thích ứng với BĐKH. Việc tìm kiếm các hỗ trợ kỹ thuật có thể thông qua Trung tâm Công nghệ Khí hậu và Mạng lưới (CTCN), đây là chi nhánh hoạt động của Cơ chế Công nghệ Công ước khung Liên hợp quốc về BĐKH do UNEP và Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) chủ trì. Trung tâm thúc đẩy việc chuyển giao các công nghệ môi trường để phát triển các-bon thấp và khả năng chống chịu với khí hậu theo yêu cầu của các quốc gia đang phát triển. CTCN cung cấp các giải pháp công nghệ, nâng cao năng lực và tư vấn về khuôn khổ chính sách, pháp lý, quy định phù hợp với nhu cầu của từng quốc gia bằng cách khai thác chuyên môn của mạng lưới các tổ chức và công ty công nghệ toàn cầu.

    Yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật được đệ trình bởi Tổ chức đầu mối được chỉ định quốc gia (NDE) của CTCN. Các đầu mối ở mỗi quốc gia sẽ điều phối các yêu cầu từ chính quyền địa phương/quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân về nâng cao năng lực và hỗ trợ kỹ thuật. Ngoài ra, các quốc gia đang phát triển cũng có thể tìm kiếm hỗ trợ kỹ thuật thông qua các hợp tác Nam - Nam, Bắc -Nam, hoặc ba phương.

    Thông qua hợp tác Bắc - Nam, hợp tác ba bên, hoặc đa phương, các quốc gia phát triển không chỉ hỗ trợ tài chính, mà còn đưa ra các hỗ trợ kỹ thuật cụ thể bằng cách trao đổi với các chuyên gia, cũng như cung cấp những khóa đào tạo nâng cao năng lực, đây là cơ hội để trao đổi, cập nhật những công nghệ - kỹ thuật mới nhằm nâng cao năng lực cho các quốc gia đang phát triển.

    3. Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam về huy động nguồn lực thực hiện NDC

    3.1. Tăng cường tiếp cận và huy động nguồn lực từ các quỹ môi trường và khí hậu toàn cầu, các đối tác phát triển quốc tế

    Kinh nghiệm của các quốc gia đảo nhỏ SIDS (Small Island Developing States) và các quốc gia đang phát triển cho thấy, đây là nguồn lực quan trọng để ứng phó với BĐKH. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của UNFCCC và Thỏa thuận Paris. Ví dụ, các nước Nauru, Papua New Guinea, Bangladesh, Thái Lan… đều đang thực hiện dự án hỗ trợ từ các quỹ môi trường và khí hậu đa phương như Quỹ Khí hậu xanh (GCF), Quỹ Quốc gia kém phát triển (LDCF), Quỹ Thích ứng (AF), Quỹ Môi trường Toàn cầu và các dự án của Ngân hàng Thế giới (WB), ADB. Các đối tác phát triển khác cũng đóng vai trò quan trọng như GIZ, USAID, AUSAID… Các lĩnh vực hỗ trợ là lâm nghiệp, phòng chống thiên tai, hạ tầng thích ứng BĐKH, năng lượng tái tạo…

    Thời gian qua, Việt Nam đã huy động được nhiều nguồn lực quốc tế, mà điển hình là Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH SPR-CC. Trong thời gian tới, cần tiếp tục phát huy, mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt là tiếp cận các quỹ GCF, GEF và các đối tác phát triển, trong bối cảnh Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình.

    3.2. Thiết lập và vận hành các quỹ quốc gia để ứng phó với BĐKH

    Bangladesh đã thành lập các quỹ về ứng phó với BĐKH như Quỹ Doanh thu (là nguồn đóng góp doanh thu cho Bộ Tài chính, cung cấp tài chính cho các hành động ứng phó với BĐKH của các Bộ, ngành, Quỹ Ủy thác BĐKH Bangladesh (BCCTF - nhằm hỗ trợ nguồn lực để thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH) và Quỹ Chống chịu BĐKH Bangladesh (huy động nguồn lực từ các đối tác tài chính và đối tác phát triển của Chính phủ nước này).

    Bên cạnh đó, Thái Lan cũng thành lập Quỹ quay vòng để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư các dự án tiết kiệm năng lượng. Riêng Việt Nam chưa có quỹ riêng cho các hành động BĐKH, mà mới chỉ thành lập Quỹ BVMT (2003) với mục tiêu chủ yếu hỗ trợ cho các dự án xử lý, cải tạo môi trường, mà chưa thành lập Trung tâm đổi mới sáng tạo ứng phó với BĐKH do Ngân hàng thế giới (WB) hỗ trợ. Kinh nghiệm của Bangladesh và Thái Lan về các quỹ BĐKH là bài học cho Việt Nam trong việc huy động nguồn lực ứng phó với BĐKH, đặc biệt của toàn xã hội, bao gồm cả khối tư nhân.

    3.3. Xây dựng và áp dụng thuế các-bon và thị trường buôn bán phát thải

    Kinh nghiệm của các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan cho thấy, Việt Nam cần xây dựng và áp dụng một số cơ chế, chính sách về: Đánh thuế sử dụng nguyên, nhiên liệu phát sinh nhiều KNK và tạo ưu đãi, hỗ trợ trong đầu tư vào nguồn năng lượng sạch (thuế các-bon); Xây dựng và phát triển hệ thống buôn bán tín chỉ phát thải (ETS), trước mắt, tập trung cho một số ngành trọng điểm, phát thải lớn (nhiệt điện), sau đó, nâng mục tiêu và mở rộng. Là quốc gia đang phát triển với trình độ công nghệ thấp, Việt Nam cần đẩy mạnh việc tham gia cơ chế tín chỉ chung (JCM) nhằm huy động đầu tư từ các quốc gia khác, cùng với sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước.

    3.4. Thúc đẩy sự tham gia đầu tư của khối tư nhân trong ứng phó với BĐKH

    Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, việc huy động nguồn lực từ khối tư nhân là rất quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực giảm nhẹ phát thải KNK. Việc phát hành trái phiếu xanh được chú trọng, huy động sự tham gia của các nhà đầu tư. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng rất chú trọng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Qua đó, phát triển mạnh mẽ thị trường công nghệ ứng phó với khí hậu và tăng cường sự tham gia đầu tư. Việc xây dựng và thực hiện các dự án hợp tác công tư (PPP) cũng có vai trò quan trọng. Các dự án ứng phó với BĐKH thường kéo dài và lợi nhuận thấp, do đó, Chính phủ cần có cam kết về cơ chế, chính sách đảm bảo lợi ích và hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư. Đây là chìa khóa nhằm mở cửa cho nguồn tài chính dưới dạng PPP vào các dự án ứng phó với BĐKH mà Việt Nam cần xem xét huy động trong thời gian tới.

    3.5. Tăng cường sự hợp tác với các bên liên quan để nâng cao hiệu quả nguồn lực ứng phó với BĐKH

    Kinh nghiệm của các quốc gia đảo nhỏ (SIDS) và những nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc cho thấy, cần phải nâng cao nhận thức, hiểu biết, qua đó, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong ứng phó với BĐKH. Cần thúc đẩy thực hiện các dự án, mô hình thích ứng dựa vào cộng động, phát huy tri thức bản địa để thích ứng với BĐKH như tại Vanuatu (tại đây, kiến thức bản địa được phát huy trong các dự án phục hồi, bảo vệ rừng ngập mặn). Ngoài ra, cần huy động sự tham gia và thực hành lối sống xanh, tiết kiệm năng lượng, sử dụng sản phẩm các-bon thấp như ở Nhật Bản, Hàn Quốc. Bên cạnh đó, cần tăng cường sự hợp tác, điều phối giữa các Bộ, ngành và địa phương, thúc đẩy lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, chính sách phát triển để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực ứng phó với BĐKH.

    4. Kết luận và khuyến nghị

    Để huy động nguồn lực cho việc thực hiện NDC, Việt Nam cần đánh giá được nhu cầu về nguồn lực theo giai đoạn. Đồng thời, xác định các hoạt động ưu tiên phù hợp với nguồn lực thực hiện để đảm bảo tính khả thi. Việc đánh giá thực trạng nguồn lực tài chính được thực hiện trên cơ sở rà soát các dòng tài chính hiện có và đánh giá nhu cầu tài chính cần thiết để thực hiện NDC. Mặt khác, cũng cần nhận diện các yêu cầu đặc biệt, cũng như ưu tiên đầu tư của các nguồn tài trợ khác nhau để nâng cao khả năng đáp ứng và thu hút đầu tư.

    Sau khi xác định được thực trạng, nhu cầu cần huy động nguồn hỗ trợ để thực hiện NDC, Việt Nam cần xây dựng các đề xuất dự án phù hợp với ưu tiên và đáp ứng tiêu chuẩn của các nhà tài trợ quốc tế. Việc nghiên cứu kỹ tiêu chí lựa chọn, quy trình tài trợ của các quỹ khí hậu là cần thiết, đảm bảo việc đề xuất đúng lĩnh vực ưu tiên, đúng cơ quan tài trợ. Ví dụ, đối với AF, nếu đề xuất các dự án về giảm nhẹ phát thải KNK sẽ không được xem xét phê duyệt, ngược lại đối với GCF, nếu gửi đề xuất là các dự án thích ứng thông thường như xây dựng đê ngăn mặn sẽ không được xem xét, phê duyệt. Vì vậy, cần xác định rõ các hoạt động ưu tiên và nguồn lực để có thể huy động được.

    Quá trình huy động tài chính cho NDC cần có sự tham gia của nhiều bên liên quan, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị triển khai thực hiện là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Do đó, việc xây dựng kế hoạch và cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan là cần thiết để đảm bảo thông tin được chia sẻ kịp thời, hiệu quả. Việt Nam cần có cơ quan điều phối việc huy động nguồn lực chung, xây dựng quy trình quản trị, cũng như chiến lược huy động nguồn lực phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và bối cảnh quốc tế. Ngoài ra, tạo dựng môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư cũng là một trong những yếu tố giúp thu hút các nguồn lực tài chính cho thực hiện NDC. Môi trường đầu tư thuận lợi sẽ cần các điều kiện chính sách phù hợp - bao gồm quy định pháp luật, mục tiêu và quy định, năng lực thể chế.

    Nguồn lực tài chính cho thực hiện mục tiêu NDC cần có sự chung tay đóng góp từ khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Hiện nay, tại nhiều quốc gia trên thế giới, khu vực tư nhân cung cấp phần lớn nguồn lực đầu tư để thực hiện các hành động khí hậu, tuy nhiên, nguồn tài chính công có vai trò quan trọng trong việc kích thích và tạo đòn bẩy thu hút cho đầu tư tư nhân.

Nguyễn Sỹ Linh, Vũ Hoàng Thùy Dương, Nguyễn Thị Thu Hà,

 Lưu Lê Hường, Lê Nam Thành, Lê Nam

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

    Tài liệu tham khảo

    1. Adaptation Fund. (2019, December 4). Project funding. https://www.adaptation-fund.org/apply - funding/project - funding/

    2. Adaptation Fund. (2020, July 8). Accreditation. https://www.adaptation-fund.org/apply - funding/accreditation/

    3. Adaptation Fund. (2021, April 21). Governance. https://www.adaptation-fund.org/about/governance/

    4. GCF. (n.d.). Accreditation process. Green Climate Fund. https://www.greenclimate.fund/accreditation/process

    5. GEF. (2021, June 14). About us. Global Environment Facility. https://www.thegef.org/about-us

    6. UNEP FI. (n.d.). Background - United Nations environment - Finance initiative. United Nations Environment - Finance Initiative - Partnership between 7. United Nations Environment and the global financial sector to promote sustainable finance. https://www.unepfi.org/about/background/

    8. UNEP FI. (n.d.). Structure - United Nations environment - Finance initiative. United Nations Environment - Finance Initiative - Partnership between United 9. Nations Environment and the global financial sector to promote sustainable finance. https://www.unepfi.org/about/structure/

    10. UNEP. (n.d.). United Nations Environment Programme Finance Initiative. United Nations Environment - Finance Initiative - Partnership between United Nations Environment and the global financial sector to promote sustainable finance. https://www.unepfi.org/

    11. United Cities and Local Governments Asia-Pacific. (2016, April 5). North – South cooperation. UCLG ASPAC. https://uclg-aspac.org/en/what-we-do/decentralized-cooperations/north - south - cooperation/

   12. UNOSSC. (2018, June 12). About south-south and triangular cooperation. https://www.unsouthsouth.org/about/about - sstc/

    13. GermanWatch, 2019. Báo cáo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu (The Global Climate Risk Index- CRI) năm 2020 công bố tại cuộc họp các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc lần thứ 25 ở Tây Ban Nha.

NỘI DUNG KHÁC

Thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào lĩnh vực xử lý nước thải ở Việt Nam

19-5-2023

Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Với những thay đổi thể chế, chính sách đã tạo động lực cho khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII năm 2017 đã chỉ rõ quan điểm “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta".

Tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển bền vững về môi trường ở Việt Nam

22-5-2023

Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (PTBV), được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, kêu gọi sự chung tay hành động xóa đói giảm nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo đến năm 2030 tất cả cư dân toàn cầu đều được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Chương trình đưa ra 17 mục tiêu PTBV (SDG), 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai.

Một số cơ sở lý luận về thiết lập tài khoản đại dương

23-5-2023

Đại dương là nguồn sinh kế quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), góp phần điều hòa khí hậu và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG14 (Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển cho phát triển bền vững) của các nước trên thế giới.

Vai trò, xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn để thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn và khuyến nghị cho Việt Nam

24-5-2023

 Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là cách tiếp cận chính sách giúp các nhà hoạch định, nhà quản lý nhìn nhận sự vận hành của nền kinh tế và tìm ra giải pháp hoàn thiện thúc đẩy xã hội áp dụng KTTH. Có nhiều công cụ chính sách khác nhau đang được bàn luận và áp dụng tại các quốc gia trên thế giới như mua sắm công xanh, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility-EPRs), tài chính xanh, nhãn sinh thái, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ về thuế/phí… Một trong những công cụ có vai trò quan trọng để thúc đẩy áp dụng KTTH là “tiêu chuẩn, quy chuẩn”. Bài viết phân tích vai trò, ý nghĩa trong tiếp cận về tiêu chuẩn, quy chuẩn, xu hướng phát triển tiêu chuẩn để thúc đẩy áp dụng KTTH và khuyến nghị cho Việt Nam.

Một cách tiếp cận đánh giá kết quả thực hiện chiến lược trong khu vực công tại Việt Nam

24-5-2023

 Hoạt động đánh giá chiến lược sau khi ban hành tại Việt Nam dần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, hoạt động này đa phần tập trung vào sơ kết hoặc tổng kết kết quả khi chuẩn bị xây dựng chiến lược cho giai đoạn mới. Hoạt động đánh giá kết quả chiến lược cũng chưa có hướng dẫn thống nhất nào về phương pháp, công cụ cũng như quy trình đánh giá.

Đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước ở Việt Nam

25-5-2023

Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước (ĐNN), chiếm 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái (HST) ĐNN tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, các khu rừng ngập mặn, các vùng ĐNN ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học (ĐDSH). Tuy nhiên, chất lượng ĐDSH các HST ĐNN của nước ta đang đối mặt với nguy cơ suy thoái ngày một nghiêm trọng, đặc biệt là các HST vùng triều, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cùng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm đang bị giảm sút nhanh chóng cả về số lượng và quy mô diện tích phân bố. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về việc đánh giá suy thoái HST ĐNN, từ đó đề xuất một số tiêu chí đánh giá mức độ suy thoái HST ĐNN có thể áp dụng tại Việt Nam.

Đánh giá tổn thất và thiệt hại liên quan đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng - kinh nghiệm một số nước và hướng áp dụng cho Việt Nam

29-5-2023

 “Tổn thất và thiệt hại” là một chủ đề mới nổi trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu (BĐKH), trong các nghiên cứu, chính sách thực hiện hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, kết nối các lĩnh vực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu rủi ro thiên tai. Đánh giá tổn thất và thiệt hại bao gồm phân tích, lượng giá các tổn thất đã xảy ra trong quá khứ hoặc dự báo, ước tính các thiệt hại liên quan đến biến đổi xảy ra trong tương lai. Ngoài việc đánh giá định lượng các tổn thất và thiệt hại (TT&TH), có thể thực hiện đánh giá định tính dựa vào cộng đồng. Bài viết giới thiệu phương pháp này từ thực tiễn áp dụng một số nước và đề xuất hướng áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề cần cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái rừng

30-5-2023

Trước sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển, tiêu thụ... ngày càng cao của con người đã gây sức ép lớn lên tài nguyên thiên nhiên. Nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội, điển hình là các dự án thủy điện, đường giao thông, khai thác khoáng sản, dịch vụ du lịch... khó tránh khỏi tác động tiêu cực đến rừng tự nhiên, do cần sử dụng đất rừng, kể cả rừng đặc dụng. Vì vậy, một số tổ chức uy tín trên thế giới đã xây dựng những hướng dẫn về đánh giá tác động của một số dự án đầu tư phát triển tới hệ sinh thái (HST) tự nhiên nói chung từ rất sớm.

Cơ chế bồi hoàn và giao dịch tín chỉ đa dạng sinh học, xu hướng mở rộng trên thế giới và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

31-5-2023

Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái (HST) trong tự nhiên [1]. ĐDSH có giá trị vô cùng to lớn đối với hệ thống tự nhiên và đời sống của con người bao gồm cả những giá trị có thể sử dụng và cả những giá trị phi sử dụng. Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá là có ĐDSH cao của thế giới, với sự đa dạng về các kiểu HST, các loài, sự phong phú và tính đặc hữu về nguồn gen. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích, chất lượng của các HST đang bị suy giảm nghiêm trọng do tác động của quá trình phát triển, thiên tai và biến đổi khí hậu. Thiết lập kênh tài chính bền vững cho ĐDSH đang là bài toán khó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới và Việt Nam [2].

Đánh giá tính khả thi và mức độ sẵn sàng tham gia Chương trình Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) tại Việt Nam

1-6-2023

EPR là cách tiếp cận chính sách môi trường, trong đó trách nhiệm của nhà sản xuất đối với sản phẩm được mở rộng đến giai đoạn chất thải trong vòng đời sản phẩm. Trên thực tế, EPR liên quan đến việc các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trong quản lý sản phẩm sau khi trở thành chất thải, bao gồm: thu thập chất thải, xử lý trước (như phân loại, chuẩn bị cho tái sử dụng, thu hồi hoặc thải bỏ giai đoạn cuối). Các hệ thống EPR cho phép các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm của mình, thông qua nguồn lực tài chính cần thiết hoặc thực hiện các khía cạnh vận hành quá trình từ cộng đồng (municipalities). Trách nhiệm có thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. EPR có thể thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp.

Nhân rộng và phát triển mô hình Reuse-Refill nhằm góp phần thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam

2-6-2023

Mô hình tái sử dụng-tái nạp đầy (Reuse-Refill) đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia trên thế giới, giúp hạn chế lượng rác thải nhựa phát sinh thông qua việc thay đổi nhận thức, hành vi của người tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Ở Việt Nam, trong bối cảnh ô nhiễm rác thải nhựa nghiêm trọng, tái sử dụng hàng hóa và nguyên liệu rất quan trọng đối với một nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) bền vững, nơi các sản phẩm và nguyên liệu vẫn được lưu thông, giảm áp lực lên tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Tái sử dụng, tái nạp là một dạng của mô hình kinh doanh tuần hoàn và đang ngày càng được đón nhận phổ biến trong lĩnh vực về bao bì, đóng gói thực phẩm…

Kinh tế tuần hoàn: Bài toán cho xử lý chất thải ở Việt Nam

5-6-2023

Xử lý chất thải ở Việt Nam vẫn là vấn đề nan giải so với yêu cầu thực tiễn. Sau nhiều nỗ lực tìm phương án phù hợp để xử lý chất thải, đến nay, chôn lấp chất thải rắn (CTR) sinh hoạt vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 70% so với các biện pháp khác. Bài toán đặt ra cho thời gian tới là sử dụng chính sách nào và cơ chế gì để chất thải không còn là nỗi ám ảnh đối với chiếm dụng diện tích đất, gây ra nhiều hệ lụy cho môi trường và bức xúc xã hội?