ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Tỷ phú Donald Trump trở thành ông chủ Nhà trắng nhiệm kỳ 2017-2021 sẽ tác động tới chính sách biến đổi khí hậu toàn cầu như thế nào?

Ngày đăng: 17 | 11 | 2016

Kỳ 1: Tân Tổng thống Donald Trump và một số quan điểm về biến đổi khí hậu của ông Ngày 8 tháng 11 năm 2016, tỷ phú Donald Trump, ứng viên của Đảng Cộng hòa đã chiến thắng bà Hillary Clinton, ứng viên Đảng Dân chủ để trở thành Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ ( nhiệm kỳ 2017-2021). Việc ông Donald Trump chiến thắng trong cuộc bầu cử một cách kịch tính, ngoạn mục, vô tiền khoáng hậu và sẽ lãnh đạo nước Mỹ trong nhiệm kỳ tới vẫn đang là chủ đề nóng không chỉ trong giới truyền thông, người dân Mỹ mà còn là chủ đề mang tính thời sự đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm, bàn luận. Một trong những vấn đề được chú ý nhiều nhất là những quan điểm của ông Trump về biến đổi khí hậu (BĐKH) và những tác động tới chính sách BĐKH toàn cầu sau khi ông đắc cử.

Ông Donald Trump phát biểu mừng chiến thắng trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng (CNN)

Mặc dù chưa chính thức trở thành ông chủ của Nhà trắng (theo thông lệ, ông Donald Trump sẽ tiếp nhận quyền điều hành đất nước từ Tổng thống đương nhiệm Obama và chính thức là tân Tổng thống vào ngày 20 tháng 01 năm 2017), nhưng ngay trong chiến dịch tranh cử ông Donald Trump đã tuyên bố và thể hiện rất rõ quan điểm của mình về chính sách của Mỹ trong lĩnh vực BĐKH theo hướng tiêu cực trong việc thực hiện các cam kết của Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) đặc biệt là việc thực hiện Thỏa thuận Paris, COP 21, năm 2015 đã được 196 quốc gia cam kết thực hiện.

Trong chiến dịch tranh cử của mình, liên quan tới các vấn đề về môi trường và BĐKH, bà Hillary Clinton đã đưa ra chủ trương ưu tiên “Bảo vệ động vật hoang dã và ứng phó hiệu quả với BĐKH”, trong khi ông Trump không đề cập đến các vần đề về môi trường.

Bên cạnh đó, bà Clinton đã cảnh báo về những tác động tiêu cực của BĐKH đối với con người, đồng thời cũng chỉ ra một trong những nguyên nhân của BĐKH là do con người gây ra. Trong khi đó ông Trump có khác biệt về quan điểm với bà Clinton và cho rằng vấn đề “Trái đất nóng lên” hay “Biến đổi khí hậu” được đưa ra là vì lợi ích của nước khác, đặc biệt có lợi cho Trung Quốc, từ đó làm cho năng lực cạnh tranh về sản xuất của Mỹ yếu đi. Ngoài ra, ông cũng không thừa nhận các bằng chứng khoa học về BĐKH toàn cầu; đồng thời cảnh báo rằng có thể ông sẽ không ủng hộ hoặc trì hoãn cam kết thực hiện Thỏa thuận.

Theo quan điểm của ông Trump, thay vì dành những nguồn lực tài chính cho BĐKH, nước Mỹ nên tập trung ưu tiên hỗ trợ cho những vấn đề toàn cầu, như: nước sạch, kiểm soát dịch bệnh, nâng cao sản xuất lương thực hoặc phát triển các nguồn năng lượng thay thế… Đối với vấn đề nước sạch, không chỉ với Mỹ mà trên phạm vi toàn cầu, ông cho rằng “chúng ta cần đầu tư hơn nữa vào cơ sở hạ tầng nước sạch bằng các giải pháp cung cấp nước sạch khả thi để tất cả mọi người đều có thể tiếp cận…”

Ở trong nước, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về môi trường và BĐKH, ông đặt vấn đề và nghi ngờ tính hiệu quả hiện nay của Cơ quan Bảo vệ môi trường Liên bang (EPA) và một số cơ quan quản lý nhà nước liên quan, đồng thời đề xuất giải thể hoặc tái cơ cấu tổ chức hoạt động của cơ quan này theo hướng tinh giản và hiệu quả hơn.

Hội nghị COP 22 tại Ma-rốc

Trước một ngày bầu cử Tổng thống của Mỹ, ngày 7 tháng 11 năm 2016, Hội nghị lần thứ 22 các bên tham gia UNFCCC (COP 22) chính thức khai mạc tại Bab Ighli, Ma-ra-ket, Ma-rốc, 43 nguyên thủ quốc gia và 32 người đứng đầu chính phủ các nước trên thế giới đã tham gia Hội nghị. Mục tiêu chính của Hội nghị là thiết lập các quy tắc thực hiện Thỏa thuận Paris có hiệu lực từ ngày 4 tháng 11 năm 2016 (sau khi được 100 quốc gia gây ra ớii 68% tổng lượng phát thải dẫn đến hiệu ứng nhà kính trên thế giới phê chuẩn). COP 22 là cơ hội để các quốc gia dễ bị tổn thương nhất do BĐKH trình bày các kế hoạch riêng của mình về ứng phó với BĐKH, ông Salaheddine Mezouar, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ma-rốc, Chủ tịch COP 22 cho rằng mục tiệu của Hội nghị rất là khó khăn vì buộc phải tìm được sự đồng thuận của các bên để thực hiện Thỏa thuận Paris sau thất bại về thực hiện các cam kết của Nghị định thư Kyoto tại COP 15, Copenhagen, Đan Mạch năm 2009. Mặc dù COP 22 chưa kết thúc, nhưng chúng ta mong muốn Hội nghị sẽ thành công và đạt được các mục tiêu mong đợi.

Đến nay, chưa thể dự đoán và khẳng định chính xác rằng các chính sách mới về BĐKH của tân Tổng thống Donald Trump có gây trì hoãn, hoặc cản trở việc thực hiện Thỏa thuận Paris hay không, nhưng chắc chắn sẽ có những tác động đến chính sách BĐKH toàn cầu. Tuy nhiên, với những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc cam kết và thực hiện Thỏa thuận Paris, hi vọng chính sách mới của tân Tổng thống Donald Trump sẽ không những không trì hoãn, cản trở việc thực hiện Thỏa thuận Paris mà còn góp phần tích cực trong việc thực hiện các kế hoạch cụ thể sẽ được các bên tham gia UNFCCC thống nhất tại COP 22.

 

ThS. Ngân Ngọc Vỹ
Phó Trưởng ban Biến đổi khí hậu và các vấn đề toàn cầu
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

Tài liệu tham khảo:

- Newyork Time (http://www.nytimes.com/2016/11/11/us/politics/donald-trump-climate-change.html)

- ClimateHome (http://www.climatechangenews.com/2016/11/09/the-paris-agreement-will-survive-president-trump/)

- Businessinsider (http://www.businessinsider.com/donald-trump-climate-change-global-warming-environment-policies-plans-platforms-2016-10)

NỘI DUNG KHÁC

Nghiên cứu đề xuất tiêu chí đánh giá tính bền vững trong khai thác, sử dụng tài nguyên sinh vật biển

22-12-2016

Vấn đề khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển ở nhiều khu vực, quốc gia đang đứng trước thách thức nghiêm trọng do các nguồn tài nguyên biển, nhất là tài nguyên sinh vật bị khai thác cạn kiệt, môi trường biển gia tăng ô nhiễm, có nơi bị suy thoái đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương, quốc gia có nguồn tài nguyên biển, trong đó có Việt Nam. Bài viết này đưa ra một nội dung bàn luận nhằm đánh giá tính bền vững trong khai thác một loại tài nguyên biển, hải đảo cụ thể, đó là các tiêu chí đánh giá tài nguyên sinh vật biển, những tiêu chí này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với duy trì tính đa dạng sinh học biển nói riêng và việc thực hiện định hướng phát triển bền vững biển nói chung của mỗi vùng, mỗi quốc gia.

Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và định hướng bảo vệ môi trường Việt Nam giai đoạn 2016-2020

22-12-2016

Để tiếp tục thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững (PTBV) cho giai đoạn sau 2015, tại Hội nghị về PTBV (Rio+20), được tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil vào 6/2012, LHQ đã xây dựng các mục tiêu PTBV (SDGs), dự kiến sẽ được thông qua ngày 25-27/9. Sau gần 2 năm thực hiện các đánh giá và tham vấn, tháng 7/2014, Nhóm công tác của LHQ đã đề xuất 17 Mục tiêu về PTBV (SDGs).

Lựa chọn cách ứng xử với môi trường

25-12-2016

Năm 2016 là năm ghi nhận nhiều thảm họa môi trường, điều ấy như một lời cảnh tỉnh về cách lựa chọn của chúng ta đối với việc phát triển kinh tế xã hội trong cả một giai đoạn dài. Lúc này, thay vì chỉ chú trọng vào mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam cần hành động quyết liệt để biến những cam kết phát triển bền vững trở thành hiện thực, bắt đầu từ lựa chọn cách ứng xử với môi trường.

Nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp thực hiện các cam kết về tài nguyên và môi trường trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

21-2-2017

  Ngày 5/10/2015, sau 5 năm với 19 vòng đàm phán chính thức, Bộ trưởng Thương mại của 12 nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam đã ký thông qua Hiệp định TPP (văn bản chính thức được ký kết vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand). Đây là Hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên đưa các nội dung về môi trường thành một chương trong các cam kết (Chương 20 với 23 Điều). Điều này khẳng định vị trí của TN&MT như một nhân tố quan trọng trong các hoạt động thương mại và những đóng góp của thương mại đối với phát triển bền vững. Mục tiêu của Chương Môi trường là thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và môi trường; tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao hơn và thực thi hiệu quả luật pháp về môi trường; tăng cường năng lực của các Bên để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất khung bộ chỉ số giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA) trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam

25-2-2017

Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,… ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến con người và hệ sinh thái. Nhiều giải pháp thích ứng được tính đến và thực hiện, trong đó giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái là giải pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động ứng phó với BĐKH nhằm đạt được đồng lợi ích về bảo tồn ĐDSH và giảm nghèo. Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái cũng chỉ ra mối quan hệ không thể tách rời giữa con người và hệ sinh thái. EBA đặc biệt liên quan đến việc quản lý, bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái để cung cấp cho con người khả năng phục hồi đối với các tác động của BĐKH. Mục tiêu hướng tới của giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái là quản lý bền vững, bảo tồn và khôi phục các hệ sinh thái nhằm để cung cấp các dịch vụ sinh thái giúp người dân thích ứng với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, giảm khả năng dễ bị tổn thương và nâng cao khả năng phục hồi trước những rủi ro, tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra.

Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển

9-3-2017

Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) đã thông qua Tuyên bố chung “Tương lai chúng ta mong muốn” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển do vấn đề chất thải nhựa trên biển gây ra. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 25/9/2015. Chương trình nghị sự đưa ra một kế hoạch hành động gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và 169 chỉ tiêu cụ thể. Mục tiêu 11, 12 và 14 đặc biệt quan hệ mật thiết tới vấn đề rác thải nhựa trên biển, dù cả 17 mục tiêu đều ít nhiều liên quan.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động tài nguyên và môi trường để đưa ra các phương án đề xuất, đề tài nghiên cứu mức độ cao hơn, phù hợp thực tiễn của Việt Nam

19-4-2017

Do mối quan hệ tương tác phức tạp của các yếu tố (kinh tế, xã hội và tài nguyên, môi trường) chưa được xem xét, đánh giá một cách khoa học và toàn diện nên việc xây dựng chính sách, chiến lược khả thi chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Mô hình hóa được coi là một công cụ hiệu quả, có thể giúp kiểm tra, đánh giá những tác động về kinh tế, sinh thái và môi trường của các chính sách khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, từ đó, xây dựng các phương án, đề xuất, định hướng thích hợp. Việc nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động, xu thế tài nguyên và môi trường không chỉ có ý nghĩa khoa học về phát triển công cụ dự báo mới trong trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường ở Việt Nam mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong phục vụ, hoạch định các chính sách, chiến lược hiệu quả lâu dài.

Monitoring influence of urbanization on urban thermal environment using multi-temporal LANDSAT imagery: application to Da Nang city

25-4-2017

This study illustrates urbanization in Da Nang city and its impacts on local thermal environments using remote sensing. In this study, multi-generation Landsat images from 1990, 1995, 2000, 2005, 2010 and 2014, were used to assess the city’s urban expansion and accompanied land surface temperature (LST) characteristics. Results showed that Da Nang urban expanded twice in 2014 (8,634 ha) comparing to 1990 (4,485 ha) and high temperature anomalies were closely associated with built-up and bare-soil land-covers. As consequence, areas covered by the highest LST correspondently expanded from centres of Thanh Khe, Hai Chau districts to mostly all 6 present downtown districts. The mean LST difference between the urban downtown area and the suburban area tends to increase over time, from 7.3 oC in 1990 to 11.9 oC in 2014. In the context of moving towards “a friendly environmental Da Nang city”, this  study  provides  useful  information  for  understanding  the  local  climatic  and  environment  changes  that  occurred  during  rapid urbanization.

Tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

5-10-2018

Vấn đề tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra đã được hình thành và phát triển qua các hội nghị các bên (COP) của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đó, tổn thất và thiệt hại (TT&TH) lần đầu tiên được đề cập trong Kế hoạch hành động Bali ở COP 13 năm 2007, đến COP 16 (năm 2010), Hội nghị đã đưa “tổn thất và thiệt hại” thành một chương trình làm việc (work program) trong Khung khổ các hoạt động thích ứng Cancun (Cancun Adaptation Framework). Ở COP 19 năm 2013, Hội nghị đã thiết lập Cơ chế Vac-sa-va về tổn thất và thiệt hại (Warsaw International Mechanism for Loss and Damage) đồng thời đã thành lập Ủy ban về TT&TH. Gần đây nhất, Thỏa thuận lịch sử về BĐKH ở Pari, COP 21 năm 2015, cũng đã đề cập và yêu cầu “các bên tham gia (UNFCCC) phải tăng cường hiểu biết, hành động, hỗ trợ, bao gồm cả thông qua Cơ chế Vac-sa-va, trên cơ sở hợp tác, về các tổn thất và thiệt hại từ các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra” (UNFCCC, 2015).

Bàn về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và định hướng phát triển năng lượng tái tạo

5-10-2018

  Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.

Nghiên cứu tính toán độ ẩm của đất khu vực Bắc Tây Nguyên sử dụng ảnh Landsat 8

11-10-2018

Tính toán độ ẩm của đất sử dụng dữ liệu vệ tinh là một trong những ứng dụng cơ bản. Giám sát độ ẩm của đất giúp chúng ta quan trắc được hạn hán xảy ra tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Nghiên cứu này sử dụng các kết quả đo, tính toán độ ẩm của đất trong phòng thí nghiệm và phân tích ảnh vệ tinh Landsat 8 OLI thu được trong tháng 3 năm 2015 để xây dựng phương trình tính toán độ ẩm của đất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Kết quả phân tích cho thấy độ ẩm của đất có quan hệ chặt chẽ với tỷ số kênh 5 trên kênh 7 của ảnh Landsat 8 bằng phương trình hàm số logarit (r2=0.73, SE = 0.07). Độ ẩm của đất nhỏ hơn 90% có độ tương quan cao với khu vực chịu ảnh hưởng của hạn hán và điều kiện khí hậu tại khu vực Bắc Tây Nguyên.

Liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - nhìn từ vai trò của cơ quan chính quyền địa phương

19-10-2018

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã chỉ rõ quan điểm: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng”. Giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề chung của Chính phủ, của từng địa phương, mà các địa phương cần phải bắt tay, hợp nhất cùng giải quyết vấn đề chung mà xã hội đang phải đối mặt. Bài viết này nhằm phân tích vai trò và đưa ra một số đề xuất khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tham gia liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.