1. Bối cảnh toàn cầu đối với năng lượng
a) Tổng quan về năng lượng toàn cầu
Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.
Điện chiếm 18,5% lượng tiêu thụ năng lượng của thế giới vào năm 2015 (tăng từ mức 9,4% của năm 1973). Sản lượng điện toàn cầu vẫn bị chi phối bởi than đá, tuy nhiên, than là nhiên liệu có lượng khí thải khí nhà kính lớn nhất.
Năng lượng tái tạo phát triển khá nhanh chóng trong những năm gần đây nhưng cho đến nay vẫn chiếm số ít trong tổng sản lượng thế giới. Trong năm 2015, thủy điện đã sản xuất được 3978 TWh, cao hơn so với sản lượng điện hạt nhân (2571 TWh vào năm 2015), điện gió (838 TWh vào năm 2015) và điện năng lượng mặt trời (247 TWh vào năm 2015).
IEA đã đưa ra bảng thống kê các chỉ số năng lượng ở mỗi quốc gia vào năm 2015 (sản lượng, mức tiêu thụ năng lượng, lượng khí thải CO2...). Bảng thống kê cho thấy sự bất bình đẳng lớn giữa các nước về mức tiêu thụ năng lượng. Chẳng hạn, mức tiêu thụ trung bình của một người dân châu Phi vào năm 2015 thấp hơn mức trung bình của các nước OECD hơn 6 lần.
IEA cũng nhắc lại những dự báo về mức tiêu thụ năng lượng thế giới. Theo đó, vào năm 2040, mức tiêu thụ năng lượng của thế giới sẽ tăng 30% so với mức của năm 2015. IEA cho rằng để đạt được mục tiêu giảm khí thải nhà kính theo Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, mức tiêu thụ năng lượng toàn cầu vào năm 2040 chỉ được phép tăng 10% so với mức của năm 2015.
b) Hiện trạng năng lượng tái tạo trên thế giới
Theo Báo cáo về hiện trạng năng lượng tái tạo toàn cầu của Mạng lưới chính sách năng lượng tái tạo cho thế kỷ 21 (REN21), công suất năng lượng tái tạo lắp đặt mới đạt kỷ lục trong năm 2016 với 161 GW, tăng tổng công suất năng lượng tái tạo toàn cầu thêm gần 9% so với năm 2015. Nổi bật nhất là năng lượng mặt trời, chiếm 47% tổng công suất lắp đặt mới, tiếp theo là năng lượng gió 34% và thủy điện 15,5%. Đây là năm thứ 5 liên tiếp, đầu tư vào công suất phát điện mới từ năng lượng tái tạo (bao gồm thủy điện) cao gấp đôi đầu tư vào điện sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch. Tổng mức đầu tư cho năng lượng tái tạo đã đạt 249,8 tỷ USD. Hiện nay, hàng năm thế giới tăng công suất lắp đặt mới từ năng lượng tái tạo nhiều hơn từ tất cả các nguồn nhiên liệu hóa thạch gộp lại.
Chi phí đầu tư cho điện mặt trời và điện gió đang giảm rất nhanh. Kỷ lục về các hồ sơ dự thầu cho dự án năng lượng mặt trời đã được ghi nhận ở Argentina, Chile, Ấn Độ, Jordan, Ả-rập Xê-út và Các tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất, với giá thầu ở một số thị trường giảm xuống dưới 0,03 USD/kWh. Cùng lúc, ngành điện gió đã chứng kiến giá mua điện thấp kỷ lục ở một số quốc gia như Chile, Ấn Độ, Mexico và Ma-rốc. Giá thấp kỷ lục đạt được từ các nhà thầu dự án điện gió ngoài khơi tại Đan Mạch và Hà Lan, đã đưa ngành công nghiệp của châu Âu đến gần hơn mục tiêu sản xuất điện gió ngoài khơi rẻ hơn điện than vào năm 2025.
Càng ngày càng có nhiều thành phố, tiểu bang, quốc gia và các công ty lớn cam kết đạt mục tiêu 100% năng lượng tái tạo bởi năng lượng tái tạo mang lại lợi ích kinh tế và có cơ hội kinh doanh, bên cạnh lợi ích về khí hậu và sức khỏe cộng đồng. Tại hội nghị về khí hậu ở Marrakesh, Ma-rốc tháng 11 năm 2016, các nhà lãnh đạo của 48 nước đang phát triển đã cam kết hành động để hướng tới đạt được 100% năng lượng tái tạo tại quốc gia của mình.
2. Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia
Ngành Năng lượng là hạ tầng cơ sở quan trọng của nền kinh tế - xã hội, quan điểm phát triển ngành Năng lượng là phải đảm bảo đi trước một bước. Ngành Năng lượng gồm các phân ngành Than, Dầu khí, Năng lượng tái tạo, Điện (trong phân ngành lại có các chuyên ngành, ví dụ: các chuyên ngành của phân ngành Năng lượng tái tạo là: gió, mặt trời, sinh khối, sinh khí, thủy triều, địa nhiệt; các chuyên ngành của phân ngành Điện là thủy điện, nhiệt điện, lưới điện,…) là một hệ thống lớn và thống nhất có mối quan hệ mật thiết với nhau, đầu ra của của phân ngành này là đầu vào của phân ngành kia và ngược lại.
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia phải được Bộ Chính trị ban hành thành Nghị quyết và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ là văn bản quan trọng nhất, là cơ sở pháp lý để xây dựng theo đúng trình tự và phải đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ khi triển khai lập Chiến lược - Quy hoạch - Kế hoạch các phân ngành, chuyên ngành của ngành Năng lượng.
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia là căn cứ duy nhất để các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương quản lý ngành kinh tế quan trọng này, đồng thời cũng là cơ sở để các tập đoàn, tổng công ty, công ty nhà nước; các tổ chức, nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước đề xuất dự án thuộc các phân ngành, chuyên ngành năng lượng phù hợp, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của Chiến lược, Quy hoạch.
Ngày 27/12/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1835/QĐ-TTg, Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, đến nay trên thực tế nhiều mục tiêu của Chiến lược đã không còn phù hợp với tình hình mới. Việc hoàn chỉnh Chiến lược này là rất cấp thiết nhằm đảm bảo Chiến lược giữ được vai trò chủ đạo của toàn ngành Năng lượng, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ, tính thống nhất với các Chiến lược, Quy hoạch của các phân ngành Than, Dầu khí, Năng lượng tái tạo, Điện.
Những nội dung cần nghiên cứu, xem xét, điều chỉnh tiến tới hoàn chỉnh để ban hành là:
a) Cập nhật triển vọng và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; các cơ hội và thách thức của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
b) Điều chỉnh một số mục tiêu phát triển của Chiến lược sau đây:
- Thời gian đưa vào vận hành tổ máy điện hạt nhân đầu tiên (năm 2028).
- Lộ trình phát triển thị trường điện và thị trường kinh doanh than, dầu khí.
- Theo Cục điều tiết Điện lực (Bộ Công Thương): Thị trường bán lẻ điện cạnh tranh (VREM) thí điểm: 2021-2023; chính thức: Từ 2023.
- Xem lại thời gian liên kết lưới điện khu vực bằng cấp điện áp 500 kV và liên kết hệ thống khí thiên nhiên khu vực.
c) Chỉ xây dựng thêm nhà máy nhiệt điện than có công nghệ hiện đại, thông số hơi mới siêu và cực siêu tới hạn, hiệu suất cao, giảm tối đa tác động xấu đến môi trường.
d) Bổ sung các chỉ tiêu về nhu cầu năng lượng. Về mục tiêu đảm bảo nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội, cần bổ sung các chỉ tiêu về nhu cầu than (triệu tấn), dầu (triệu tấn), khí (tỷ m3), điện (tỷ kWh).
e) Về chính sách: bổ sung Chính sách chủ trương nội địa hóa hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành trung tâm chế biến chế tạo mới về năng lượng của thế giới trong tương lai (theo từng chuyên ngành).
3. Định hướng của Việt Nam trong phát triển năng lượng tái tạo
3.1 Mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo
Việt Nam có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo sẵn có. Những nguồn năng lượng tái tạo có thể khai thác và sử dụng trong thực tế đã được nhận diện đến nay gồm: thủy điện nhỏ, năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng khí sinh học, nhiên liệu sinh học, năng lượng từ nguồn rác thải sinh hoạt, năng lượng mặt trời, và năng lượng địa nhiệt.
Để đáp ứng nhu cầu trong khi việc cung ứng năng lượng đang và sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề và thách thức, đặc biệt là sự cạn kiệt dần nguồn nhiên liệu hóa thạch nội địa, giá dầu biến động theo xu thế tăng và Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào giá năng lượng thế giới... Chính vì vậy, việc xem xét khai thác nguồn năng lượng tái tạo trong giai đoạn tới sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội, an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường. Vấn đề này đã được Chính phủ quan tâm, chỉ đạo và bước đầu đã được đề cập trong một số văn bản pháp lý.
Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2068/QĐ-TTg năm 2015. Đây có thể coi là nền tảng cho sự phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam, khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển năng lượng tái tạo với giá hợp lý, tăng dần tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng sản lượng và tiêu dùng năng lượng của quốc gia.
Mục tiêu chiến lược là từng bước nâng cao tỷ lệ tiếp cận nguồn năng lượng sạch và điện năng của người dân khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo: Đến năm 2020 hầu hết số hộ dân có điện, đến năm 2030 hầu hết các hộ dân được tiếp cận các dịch vụ năng lượng hiện đại, bền vững, tin cậy với giá bán điện và giá năng lượng hợp lý.
Phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo góp phần thực hiện các mục tiêu môi trường bền vững và phát triển nền kinh tế xanh: Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng so với phương án phát triển bình thường: Khoảng 5% vào năm 2020; khoảng 25% vào năm 2030 và khoảng 45% vào năm 2050.
Tăng tổng các nguồn năng lượng tái tạo sản xuất, sử dụng từ khoảng 25 triệu TOE (tấn dầu tương đương) vào năm 2015 lên đạt khoảng 37 triệu TOE vào năm 2020; khoảng 62 triệu TOE vào năm 2030 và 138 triệu TOE vào năm 2050. Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp năm 2015 đạt khoảng 31,8%; khoảng 31,0% vào năm 2020; khoảng 32,3% vào năm 2030 và tăng lên, đạt khoảng 44,0% vào năm 2050.
Tăng sản lượng điện sản xuất từ năng lượng tái tạo tăng từ khoảng 58 tỷ kWh năm 2015 lên đạt khoảng 101 tỷ kWh vào năm 2020, khoảng 186 tỷ kWh vào năm 2030 và khoảng 452 tỷ kWh vào năm 2050. Tỷ lệ điện năng sản xuất từ năng lượng tái tạo trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc tăng từ khoảng 35% vào năm 2015 tăng lên khoảng 38% vào năm 2020; đạt khoảng 32% vào năm 2030 và khoảng 43% vào năm 2050.
Tăng diện tích hấp thụ của các dàn nước nóng năng lượng mặt trời từ khoảng 3 triệu m2 vào năm 2015 lên đạt khoảng 8 triệu m2 vào năm 2020, cung cấp 1,1 triệu TOE; khoảng 22 triệu m2 năm 2030, cung cấp 3,1 triệu TOE và đạt khoảng 41 triệu m2 vào năm 2050, cung cấp 6 triệu TOE. Tăng tỷ lệ số hộ gia đình có các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời (dàn đun nước nóng, bếp nấu ăn, sưởi ấm và làm mát không gian, chưng cất nước,... sử dụng năng lượng mặt trời) từ khoảng 4,3% năm 2015 lên khoảng 12% vào năm 2020, khoảng 26% vào năm 2030 và khoảng 50% vào năm 2050.
Tăng quy mô sử dụng công nghệ khí sinh học với thể tích xây dựng từ khoảng 4 triệu m3 vào năm 2015 lên khoảng 8 triệu m3 vào năm 2020; khoảng 60 triệu m3 vào năm 2030 và khoảng 100 triệu m3 vào năm 2050.
3.2 Cơ chế, chính sách ưu tiên cho phát triển năng lượng tái tạo
Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo với hàng loạt cơ chế, chính sách ưu tiên và mang nhiều tính đột phá, được kỳ vọng sẽ tạo ra lực đẩy mạnh mẽ phát triển lĩnh vực đầy tiềm năng này tại Việt Nam.
Chiến lược xác định rõ, các đơn vị điện lực có trách nhiệm mua toàn bộ điện năng được sản xuất từ việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo nối lưới thuộc địa bàn do đơn vị mình quản lý. Chi phí mua điện của các dự án phát điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo hạch toán vào giá thành điện của đơn vị điện lực và được tính toán và đưa đầy đủ trong cơ cấu giá bán lẻ điện và thu hồi qua doanh thu bán điện. Các dự án điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện được ưu tiên đấu nối với hệ thống điện quốc gia. Chi phí đấu nối và các chi phí khác có liên quan phát sinh hợp lý của các đơn vị lưới điện (đơn vị truyền tải điện và phân phối điện) do mua điện được sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo được tính trong chi phí truyền tải, phân phối điện của đơn vị lưới điện.
Giá bán điện được xác định phù hợp với điều kiện của các khu vực khác nhau và các đặc điểm của công nghệ phát điện từ các nguồn năng lượng tái tạo khác nhau, theo nguyên tắc giúp thúc đẩy sự phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, bảo đảm nhà đầu tư thu hồi được chi phí và có lợi nhuận hợp lý.
Về hệ thống điện độc lập sử dụng nguồn điện độc lập sản xuất điện từ nguồn năng lượng tái tạo, chủ đầu tư xây dựng đề án giá điện và xác định tổng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trình bộ ngành trực tiếp liên quan thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tổng mức hỗ trợ được trích từ Quỹ phát triển năng lượng bền vững.
Các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án; hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành. Về đất đai, các dự án sẽ được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư.
Phát triển năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả không chỉ là giải pháp quan trọng trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu mà còn mang lại các cơ hội và lợi ích kinh tế mới; tăng cường tiếp cận năng lượng cho người nghèo, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm bảo an ninh năng lượng của các quốc gia. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia đã thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ từ năng lượng nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo nhờ vào tiến bộ khoa học công nghệ và đà giảm giá nhanh mang lại hiệu quả kinh tế của năng lượng tái tạo. Ở Việt Nam, Chính phủ đã kịp thời ban hành một số chiến lược, chính sách thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, giảm phát thải khí nhà kính và hướng tới tăng trưởng xanh.
Mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo càng ngày càng rõ nét hơn, tham vọng hơn và chi tiết hơn, đi kèm theo là những công cụ chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, để tạo ra một thị trường thúc đẩy năng lượng tái tạo là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi thời gian dài để thực hiện và cần sự nỗ lực từ nhiều bên liên quan gồm chính phủ, các nhà đầu tư và người dân.
PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, CN. Phan Thị Trường Giang
(Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường)
Tài liệu tham khảo
- IEA, Key World Energy Statistics, 2017.
- REN21, Renewables 2017 Global Status Report, 2017.
- Quyết định số 1855/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, 2007.
- Quyết định số 2068/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, 2015.
- Quyết định số 1208/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030, 2011.