ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Đề xuất Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường

Ngày đăng: 08 | 11 | 2018

Ngành tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường thông qua các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một loại chính sách công. Để có cơ sở cho việc xây dựng Khung chương trình phân tích chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm phục vụ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chúng tôi đã nghiên cứu, so sánh các chương trình phân tích chính sách công của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. 

Các chương trình đào tạo phân tích chính sách công trong nước được nghiên cứu là những chương trình đang được giảng dạy tại các trường: Đại học Vinh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Trường Fulbright Việt Nam, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Các chương trình đào tạo phân tích chính sách công ngoài nước được nghiên cứu là những chương trình đang được giảng dạy tại các trường: Đại học Washington & Jefferson, Đại học Mills, Đại học Lewis, Đại học Indianna, Đại học Houston (Hoa Kỳ), Đại học Kent, Đại học Oxford (Anh), Đại học Auckland, Đại học Waikato (New Zealand), Đại học tổng hợp Australia (Úc), Đại học Regina (Canada).

Qua nghiên cứu và so sánh, chúng tôi nhận thấy các chương trình đào tạo về phân tích chính sách công tại Việt Nam về cơ bản có những điểm chung, đó là: đào tạo ra những học viên có lập trường chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, nắm vững kiến thức chuyên môn về hoạch định, phân tích, thực thi chính sách công; Có khả năng tư vấn, tham mưu về hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách công; Có khả năng sử dụng các công cụ chính sách trong quản lý xã hội, nhất là quản lý kinh tế, quản lý nhà nước; Có khả năng đề xuất sáng kiến trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan Đảng và Nhà nước.

Trong khi đó, các chương trình đào tạo về phân tích chính sách công tại nước ngoài lại có những điểm chung khác biệt với Việt Nam, đó là: chương trình thường được bắt đầu bằng học các môn học như luật, chính trị, kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế lượng, phân tích chi phí-lợi ích, v.v. tại giảng đường. Tiếp đến là việc học tập thông qua hội thảo và làm việc nhóm, nghiên cứu tình huống, làm việc trực tiếp với các nhà hoạch định/thực thi chính sách và cuối cùng là viết luận văn tốt nghiệp khóa học. Các học viên hoàn thành Chương trình chính sách công sẽ được đào tạo đầy đủ các công cụ phân tích tiên tiến, đủ năng lực để đảm đương các công việc phân tích và ra quyết định ở mọi cấp độ, đặc biệt trong các cơ quan thuộc chính quyền các cấp cũng như các tổ chức giáo dục, các tổ chức phi lợi nhuận, và các công ty tư nhân.

Với mục tiêu đào tạo ra những con người có lập trường chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt nên chương trình phân tích chính sách trong nước bao gồm nhiều môn chính trị để học viên nắm vững kiến thức cơ bản, hệ thống về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong khi đó các chương trình của nước ngoài chú trọng tới việc trang bị cho học viên những công cụ phân tích cả định tính lẫn định lượng. Mặc dù ít đề cập đến chính trị, song phần lớn các chương trình của nước ngoài đề giảng dạy các môn học liên quan đến bộ máy lập pháp, bộ máy hành pháp và dành sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường.

Qua việc nghiên cứu, so sánh các chương trình phân tích chính sách công nêu trên cùng với việc lựa chọn những nội dung quan trọng của các chính sách hiện hành về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chúng tôi đề xuất Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường gồm 03 nội dung chính: (1) Khung chương trình về các môn bổ trợ; (2) Khung chương trình về các chính sách cần phân tích và (3) Bài tập và thảo luận.

1. Khung chương trình về các môn bổ trợ

Để có thể phân tích được những tác động đa chiều của các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường tới đời sống kinh tế xã hội, Khung chương trình về các môn bổ trợ gồm các môn học sau:

Chính trị học là ngành nghiên cứu lý thuyết, thực tiễn và phân tích các hệ thống chính trị, thể chế và tổ chức nhà nước. Chính trị học sẽ giúp học viên nắm vững định hướng phát triển của quốc gia cũng như cách thức mà nhà nước quản lý xã hội thông qua việc hoạch định các chính sách quản lý, phát triển.

Kinh tế vĩ mô là ngành nghiên cứu về: đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả một nền kinh tế; nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc gia; những yếu tố quyết định tới tăng trưởng kinh tế. Kinh tế vĩ mô sẽ giúp học viên phân tích được những tác động đa chiều của các chính sách qui định về sở hữu, thời hạn giao đất, cho thuê đất, hạn mức sử dụng đất... tới đời sống kinh tế xã hội.

Kinh tế vi mô là một ngành nghiên cứu về hành vi và cách thức tương tác kinh tế của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế (người tiêu dùng, nhà sản xuất), phân tích cơ chế thị trường thiết lập ra giá cả tương đối giữa các hàng hóa và dịch vụ và sự phân bổ các nguồn tài nguyên trong nền kinh tế. Kinh tế vi mô sẽ giúp học viên phân tích được những tác động đa chiều của các chính sách liên quan đến phí, thuế, đền bù, tiền cấp quyền khai thác... tới đời sống kinh tế xã hội.

Kinh tế lượng là khoa học ứng dụng toán (đặc biệt là các phương pháp thống kê) vào kinh tế. Kinh tế lượng ứng dụng các phương pháp kinh tế lượng vào đánh giá các lý thuyết kinh tế, phát triển và sử dụng các mô hình kinh tế lượng để nghiên cứu, đánh giá kinh tế cả tiền kỳ lẫn hậu kỳ. Kinh tế lượng sẽ giúp học viên phân tích được những tác động đa chiều của các chính sách liên quan đến thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển nước lưu vực sông, vận hành liên hồ chứa... tới đời sống kinh tế - xã hội.

Phân tích chi phí - lợi ích (CBA) là một quá trình tính toán và so sánh lợi ích và chi phí của một chính sách, hoặc quyết định chính phủ, là sự phân tích cân bằng lợi ích và chi phí dự kiến để dự đoán liệu các lợi ích của một chính sách có lớn hơn chi phí của nó, xác định lựa chọn làm tăng phúc lợi từ một chính sách hay dự án cụ thể. CBA sẽ giúp học viên phân tích, lựa chọn được lợi ích của các chính sách bảo tồn hay khai thác tài nguyên, chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, tái định cư, chuyển nước lưu vực sông...tới đời sống kinh tế xã hội.

Tâm lý học là ngành nghiên cứu về tâm trí và hành vi, xác định mối quan hệ nhân quả và tương quan giữa những yếu tố tâm lý, hành vi của người dân với từng chính sách, quy định cụ thể. Tâm lý học sẽ giúp học viên phân tích được phản ứng của người dân cũng như những tác động đa chiều của các chính sách liên quan đến thu hồi đất, tái định cư, đền bù, những hành vi bị nghiêm cấm trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường tới đời sống kinh tế xã hội.

Quản lý tài nguyên thiên nhiên là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên như đất, nước, khoáng sản, sinh vật, v.v. Quản lý tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp học viên nắm rõ các định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển và các chế tài phù hợp để việc việc khai thác, sử dụng và tái tạo tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, đúng đắn để mang lại lợi ích tối ưu cho đất nước, hạn chế tối đa mức độ ô nhiễm tới môi trường trong việc sử dụng tài nguyên.

2. Khung chương trình về các chính sách cần phân tích

Để tăng cường năng lực phân tích, tính toán, xác định được những tác động đa chiều của các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường tới đời sống kinh tế xã hội, Khung chương trình về các chính sách cần phân tích gồm các nội dung chính sau:

- Các nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường;

- Chính sách bảo vệ, phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên;

- Chính sách về sở hữu tài nguyên;

- Chính sách quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng tài nguyên;

- Chính sách quy định những hành vi bị nghiêm cấm trong khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường;

- Chính sách quy định về tài chính (giá, thuế, phí, tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên, v.v.)

3. Bài tập và thảo luận

Để nắm vững các nguyên lý phân tích chính sách và sử dụng thành thạo các công cụ phân tích định tính và định lượng những tác động của các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, học viên cần thực hành thông qua việc làm bài tập và thảo luận về các chính sách cụ thể. Một số gợi ý cho phần Bài tập và thảo luận của Khung chương trình như sau:

- Phân tích chính sách về sở hữu đất đai của nước ta hiện nay tới sự phát triển thị trường nói chung và thị trường bất động sản nói riêng.

- Xây dựng mô hình xác định mối quan hệ giữa Chính sách quy định về khung giá đất hiện hành với khiếu kiện đông người về đất đai.

- Phân tích tác động của chính sách về thuế, phí nước hiện hành tới ngành nuôi trồng thủy sản nước ta.

- Phân tích chi phí - lợi ích của việc thực hiện Chính sách chuyển đổi từ cơ chế "xin - cho" sang cơ chế đấu giá quyền khai thác khoáng sản.

- Xây dựng mô hình xác định mối quan hệ giữa chính sách quy định về bảo tồn đa dạng sinh học với tỷ lệ đói nghèo ở nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN

Để phân tích chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, tính toán, xác định được những tác động đa chiều của các chính sách tới đời sống kinh tế - xã hội, người quản lý, hoạch định chính sách cần có các công cụ phân tích chính sách thông qua việc tiếp thu kiến thức từ các môn học bổ trợ như: Chính trị học, Kinh tế vĩ mô, Kinh tế vi mô, Kinh tế lượng, Phân tích chi phí - lợi ích (CBA), Tâm lý học, Quản lý tài nguyên thiên nhiên, v.v. Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường bao gồm ba nội dung chính. Tùy theo đối tượng cần bồi dưỡng cũng như thời gian của khóa bồi dưỡng, giảng viên cần nghiên cứu, điều chỉnh thời lượng của từng môn học bổ trợ cũng như nội dung chính sách và thảo luận các tình huống cụ thể trong thực tiễn để mang lại hiệu quả tối ưu của khóa học.

 

ThS. Trịnh Thị Hải Yến, CN. Phạm Kim Long, TS. Nguyễn Thắng
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

Bài viết đã được đăng tại Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, kỳ 2 tháng 5/2018


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Cao Đàm, 2012, “Kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách”, NXB Thế giới.

2. Thái Xuân Sang, “Một số vấn đề và lý luận và thực tiễn về chính sách công ở Việt Nam”, Tài liệu chuyên khảo.

3. Đặng Ngọc Lợi, “Chính sách công ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”, Tạp chí kinh tế.

4. Nguyễn Đăng Thành, “Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản.

5. Colebatch H. (2009), “Policy’, Open University Press.

6. Dye T. (2007), “Understanding Public Policy”, Prentice Hall.

7. Wheelan C. (2011), “Introduction to Public Policy”, New York

8. http://tailieu.ttbd.gov.vn

9. https://www.instituteforgovernment.org.uk

10. https://www.american.edu

NỘI DUNG KHÁC

Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

13-11-2018

Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.

Chiến lược tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - Yêu cầu bức thiết của công tác quản lý nhà nước

14-11-2018

Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường là những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ 21. Nhiều Điều ước quốc tế đã được Việt Nam cam kết thực hiện nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, môi trường. Trong đó, phần lớn các văn bản đều có đề cập đến công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động thực tiễn trong vấn đề này.

Tiếp cận quá trình trong phân tích chính sách tài nguyên và môi trường

14-11-2018

Trên thế giới, khoa học nghiên cứu về chính sách công và phân tích chính sách với tư cách là một lĩnh vực khoa học xã hội, dựa trên những nguyên tắc kinh tế học, xã hội học, luật học và những chuyên ngành hàn lâm đã được hình thành từ lâu. Việc nghiên cứu các phương pháp phân tích chính sách và áp dụng trong ngành tài nguyên và môi trường có ý nghĩa rất quan trọng, tuy nhiên câu hỏi tiếp cận và sử dụng các công cụ/phương pháp phân tích chính sách trong quá trình phân tích chính sách ngành tài nguyên và môi trường như thế nào chưa được làm rõ trên cơ sở tiếp cận hoạch định chính sách như một quá trình. Việc xác định các phương pháp phân tích hay công cụ phù hợp có thể sử dụng hiệu quả cho từng khâu trong quá trình hoạch định chính sách cần được xem xét như một hướng tiếp cận mới. Bài viết xem xét các phương pháp phân tích chính sách định lượng và định tính và đánh giá sự phù hợp trong công tác hoạch định chính sách ngành tài nguyên và môi trường.Cách tiếp cận theo quá trình giúp khả năng ứng dụng của các phân tích chính sách được rõ ràng và sử dụng hiệu quả, phù hợp cho từng giai đoạn.

Ứng dụng cách tiếp cận foresight trong xây dựng chính sách quản lý tài nguyên và môi trường của Việt Nam

7-12-2018

Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề môi trường và tài nguyên nghiêm trọng đến mức ảnh hưởng trực tiếp tới cộng đồng. Vì vậy, trước bối cảnh như hiện nay, công tác quản lý cần phải có những định hướng trước mắt cũng như dài hạn trong xây dựng chiến lược, chính sách, muốn vậy cần phải làm tốt công tác dự báo. Khác với cách tiếp cận khép kín của dự báo truyền thống, cách tiếp cận dự báo dài hạn (foresight) được xem như là cách thức giao tiếp, trao đổi và thỏa thuận giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, từ đó phát hiện ra những giá trị khoa học, kinh tế, văn hóa và xã hội có đóng góp lớn cho xã hội chung trong tương lai, đồng thời tích hợp được trong quá trình dự báo các vấn đề cần thảo luận, đánh giá, phân tích, đề xuất chính sách thành một quá trình tổng hợp, liên ngành. Hiện nay, công tác dự báo chính sách của Việt Nam chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Do vậy, đây có thể được coi là cách tiếp cận mới hỗ trợ công tác dự báo trong xây dựng chiến lược ngành tài nguyên và môi trường.

Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp

3-9-2019

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phát sinh chất thải rắn (CTR) ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng, trở thành vấn đề môi trường bức xúc. Gần đây, Chính phủ đã yêu cầu giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) làm cơ quan đầu mối thống nhất quản lý về chất thải rắn. Bài báo này giới thiệu tổng quan về công tác quản lý chất thải rắn ở nước ta và đề xuất một số định hướng giải pháp trong thời gian tới.

Chiến lược, chính sách biển của một số nước trong khu vực Biển Đông và tác động đối với Việt Nam

11-9-2019

Mở đầu Khi loài người bước vào thế kỉ 21, thực tế cho thấy rằng các chiến lược, chính sách quản lý tổng hợp biển ngày càng trở nên cần thiết để sử dụng, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên môi trường biển. Hầu hết các quốc gia đã có những chính sách cụ thể để quản lý hiệu quả, sử dụng bền vững biển. Trong đó tập trung các hướng phổ biến: một là xây dựng tầm nhìn tổng hợp, toàn diện trong công tác quản lý biển, đại dương và khu vực đới bờ trong quyền tài phán quốc gia, hai là phát triển hài hòa với các luật, chính sách liên quan đến biển đã có, ba là thúc đẩy phát triển bền vững biển và đới bờ, bảo vệ đa dạng sinh học và các hệ sinh thái và bốn là đưa ra các định hướng hướng dẫn để điều phối, giúp gắn kết hài hòa quyết định, hành động của các cơ quan ban ngành liên quan đến biển… mới thực sự phát triển trong những năm gần đây.

Các mô hình kinh tế tuần hoàn Việt Nam: Cơ hội định hướng phát triển

4-10-2019

1. Mở đầu Các mô hình phát triển kinh tế truyền thống - kinh tế tuyến tính (Linear Economy), dựa trên nguyên lý khai thác tài nguyên từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường, với các mô hình này dẫn đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gia tăng chất thải và gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Để giải quyết nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường cần phải thay đổi cách tiếp cận chuyển đổi từ các mô hình “ kinh tế tuyến tính” sang “kinh tế tuần hoàn”, trong đó tài nguyên đầu vào, chất thải, khí thải và năng lượng được tối thiểu hóa ngay từ trong quy trình sản xuất và tiêu dùng từ thiết kế, bảo trì, sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, tân trang và tái chế lâu dài dựa trên động lực kinh tế, hướng đến một nền kinh tế phát thải bằng không.

Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam - thực trạng và khuyến nghị

14-11-2019

Ngày nay, xu hướng cạn kiệt của các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng đẩy mạnh khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển và làm giàu từ biển. Cùng với những đóng góp to lớn từ khai thác tài nguyên biển vào quá trình phát triển chung của đất nước, môi trường biển ở nhiều khu vực đang đứng trước nhiều thách thức. Ô nhiễm biển đến mức báo động đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Bài viết này trình bày thực trạng các vấn đề môi trường biển đang đối mặt hiện nay ở nước ta và tổng kết một số khuyến nghị về hướng giải pháp cụ thể nhằm hướng đến quản lý bền vững và bảo vệ môi trường biển.

Factors that affect land values and the development of land value maps for strenthening policy making in Vietnam: The case study of non-agricultural land in Quang Ninh province, Vietnam

3-12-2019

This study is a part of National Science and Technology Program on climate change response, natural resources and environment management from 2016 to 2020. The overall objectives of the study are: re-systemizing the classical and modern theories as well as identifying the factors affecting the land values in Vietnam; developing procedures and methods of mapping suitable land value areas in order to support the Government in policy making and regulating land use rights market in Vietnam. The results have classified three groups of factors that have impacts on land values in Vietnam. In particular, based on the successful test results in Quang Ninh Province, Vietnam, the research team discussed issues relating to land management institutions, issues of prices, land values in the context of applying the universal ownership regime to land and developing a socialist-oriented market economy in Vietnam. These results show that “the use of value theory and the development of land value maps helps the Government effectively manage and regulate land use rights market in Vietnam. Keywords: land value, value zone map, non-agricultural land, Quang Ninh province, climate change.

Tổng quan về quản lý chất thải rắn trên thế giới và một số giải pháp cho Việt Nam

16-12-2019

Cùng với sự gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, chất thải rắn (CTR) đang gia tăng cả về khối lượng và chủng loại. Ở nước ta, công tác quản lý CTR còn nhiều bất cập như tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt nông thôn còn chưa cao; CTR sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn; tỷ lệ tái chế còn thấp; phương thức xử lý chủ yếu là chôn lấp không hợp vệ sinh… (Thắng N.T và cộng sự, 2019). Quản lý CTR yếu kém đã trở thành vấn đề nổi cộm, bức xúc ở nhiều địa phương thời gian qua như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Dương, Quảng Ngãi…, đặt ra nhu cầu bức thiết phải có các giải pháp hữu hiệu trong thời gian tới. Bài viết này có mục đích cung cấp tổng quan chung về tình hình quản lý CTR trên thế giới, để có sự so sánh, nhìn nhận về thực trạng quản lý CTR ở nước ta hiện nay. Từ đó, có thể đề xuất những giải pháp cải thiện và tăng cường công tác quản lý CTR trong thời gian tới.

Cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

1-1-2020

1. Mở đầu Trải qua một quá trình phát triển của kinh tế thế giới từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, lên công nghiệp, công nghiệp hiện đại và hướng đến nền kinh tế số, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã đạt được những thành tựu to lớn, tuy nhiên cùng với đó là sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường gia tăng. Để khắc phục những vấn đề này nhằm đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, không thiếu hụt nguồn cung cấp đầu vào cho hệ thống kinh tế và giảm thiểu tối đa chất thải đưa ra môi trường, hướng đến một nền kinh tế không có chất thải, chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính (Linear Economy), dựa trên nguyên lý khai thác tài nguyên thiên nhiên từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường sang kinh tế tuần hoàn (Circular Economy), dựa trên nguyên lý chất thải đầu ra của hoạt động kinh tế sẽ được thu hồi trở lại đầu vào cho hệ thống kinh tế dưới dạng tài nguyên và không phát thải ra môi trường.

Một số định hướng chiến lược về bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian tới

2-2-2020

Nhân loại đang bước sang một thập niên mới của thế kỷ 21 trong bối cảnh chiến tranh thương mại, cạnh tranh nước lớn và cách mạng công nghiệp 4.0. Biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng gia tăng, xu hướng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên tiếp tục tiếp diễn. Ở nước ta, tăng trưởng kinh tế trong vài năm gần đây đạt được kết quả khá cao, xấp xỉ 7%/năm. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện, dự kiến 50% dân số sẽ thuộc diện tầng lớp trung lưu vào năm 2035 (OECD, 2019). Tuy nhiên, ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên và BĐKH gia tăng sẽ vẫn là các thách thức lớn đối với sự phát triển của đất nước. Cùng với cộng đồng quốc tế, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương phát triển nhanh và bền vững với cam kết thực hiện thành công 17 mục tiêu PTBV đến 2030 và Thỏa thuận Pari về BĐKH.