ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Nâng cao hiệu quả chính sách khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nhìn từ cộng đồng kinh tế ASEAN

Ngày đăng: 02 | 11 | 2018

Tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, ASEAN luôn tăng cường, đề cao vai trò hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản. AEC ra đời sẽ hứa hẹn tương lai ngành khai khoáng ở khu vực ngày càng trở nên bùng nổ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ sản xuất hàng hóa... Điều này sẽ tác động đến hoạt động khoáng sản của Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam cần phải thích ứng, nâng cao hiệu quả các chính sách khoáng sản.

Hợp tác khoáng sản Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

Trước xu hướng vận động, các quốc gia ngày càng hòa nhập sâu vào dòng chảy của hội nhập. Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình phát triển, nếu không sẽ rơi vào trạng thái cô lập, tụt hậu. Tuy nhiên, hợp tác cũng dễ trở thành “con dao hai lưỡi” nếu nước ta không chủ động, dự báo trước những khó khăn, tác động của quá trình hội nhập cho từng lĩnh vực, mỗi giai đoạn nhất định. Sau 15 năm thành lập, đến năm 2017, ngành TN&MT đã có quan hệ hợp tác song phương với 77 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã tham gia và ký kết 133 văn kiện hợp tác quốc tế, với 34 dự án nhận được sự hỗ trợ tài chính từ quốc tế với tổng giá trị hơn 8.800 tỷ đồng (Monre, 2017).

Hợp tác trong hoạt động khoáng sản ở Việt Nam sớm được chú trọng, xây dựng được mối quan hệ với nhiều tổ chức, quốc gia, khu vực có nền công nghiệp khai khoáng hiện đại như Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Nam Phi, Ấn Độ, Canada… góp phần đưa nền công nghiệp khai khoáng ở Việt Nam bắt kịp với xu hướng phát triển trên thế giới. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản ra nước ngoài như: Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Hoá chất Việt Nam... Tại Lào đã có 46 dự án của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản với tổng vốn đầu tư là 118 triệu USD, quy mô bình quân dự án 2,5 triệu USD, đây là lĩnh vực có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư nhiều nhất tại Lào (PGS.TS. Kim Ngọc: “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Lào”).

Tăng cường hợp tác khoáng sản trong AEC

AEC là một trong những trụ cột của Cộng đồng ASEAN, ra đời nhằm tạo thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong khối tiếp cận các yếu tố về vốn, công nghệ, thị trường và lao động. Quan hệ trong ASEAN được gia tăng, liên kết hội nhập giữa các quốc gia ngày càng cao, đưa AEC trở thành “miền đất hứa” đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thương mại giữa các nước trong khối ASEAN có những thay đổi trong giai đoạn vừa qua. Từ năm 2005 đến năm 2015, giá trị thương mại hàng hoá giữa các nước ASEAN có xu hướng ngày càng tăng: Xuất khẩu nội khối ASEAN tăng khoảng 87% và nhập khẩu tăng khoảng 69%; Xuất khẩu chiếm tỉ trọng lớn hơn so với nhập khẩu trong cán cân thương mại khu vực nội khối ASEAN, tính trung bình đạt 55% (Ban Thư ký ASEAN). Năm 2017 tăng trưởng GDP vượt mức dự kiến, đầu tư, xuất khẩu tăng cao. Mức tăng trưởng chung của các nước ASEAN năm 2017 ước đạt 5,5%, nhanh nhất kể từ quý IV/2012 (Bộ Công thương, 2017).

Khu vực ASEAN giàu tài nguyên khoáng sản và năng lượng, là cơ sở và động lực để tạo ra sự liên kết, thúc đẩy sự phát triển của ngành khai khoáng, góp phần để AEC đạt được mục tiêu vào năm 2025. Kế hoạch thực hiện của cam kết sẽ tập trung: (i) Ưu tiên các hoạt động hợp tác trong Kế hoạch hành động và đảm bảo các nguồn lực tài chính để thực hiện; (ii) Tăng cường phát triển khoáng sản thông qua trao đổi kiến thức, chuyên môn, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ trong phát triển khoáng sản thân thiện với môi trường, thúc đẩy việc ứng dụng năng lượng xanh, công nghệ và phát triển khai thác xanh trong ASEAN để đảm bảo sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên; (iii) Tăng cường hợp tác về xây dựng năng lực cho các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản và phát triển lao động có kỹ năng.

Số liệu World Bank cho thấy, đóng góp của tô tài nguyên khoáng sản vào tỉ trọng GDP của các nước trong khối ASEAN có xu hướng gia tăng, mức đóng góp vào GDP vào khoảng 2% hoặc ít hơn. Trong đó tô tài nguyên khoáng sản trong tỉ trọng GDP lớn nhất là Lào với tỉ lệ đóng góp từ 3,7% năm 2005 lên 6,7% năm 2015. Ngược lại Indonexia đã có xu hướng giảm về tô khoáng sản từ 2,056% năm 2005 xuống còn 0,525% năm 2015.

AEC khi đi vào hoạt động, lĩnh vực khoáng sản Việt Nam cũng chịu những tác động nhất định. Số liệu của Bộ Công thương về xuất nhập khẩu, tỉ trọng thương mại của nhóm nhiên liệu và khoáng sản sau năm 2016 bị sụt giảm so với năm 2015 với kim ngạch xuất khẩu là 29 triệu USD, năm 2017 đã từng bước được khôi phục khi kim ngạch tăng so với năm 2016 là 25,9 triệu USD, trong đó có sự đóng góp của than đá; quặng và khoáng sản khác góp phần tích cực đóng góp vào mức tăng chung của thị trường xuất khẩu Việt Nam vào khu vực ASEAN.

Chính sách khai khoáng ở Việt Nam và khả năng thích ứng với hội nhập AEC

Chính sách khai thác khoáng sản ngày càng được chú trọng và từng bước được hoàn thiện, nâng cao hiệu quả nguồn vốn tự nhiên. Từ Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII ban hành ngày 01/3/1996 về “Định hướng Chiến lược tài nguyên khoáng sản và phát triển công nghiệp khai khoáng đến năm 2010” đến Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 của Bộ Chính trị khóa XI về “Định hướng Chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được thể chế hóa bằng các văn bản thông qua Luật Khoáng sản 1996, tiếp đến là Luật Khoáng sản 2010 và các văn bản dưới luật. Chiến lược phát triển khoáng sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2427/QĐ-TTg ngày 22/12/2011 đã chỉ rõ Khoáng sản Việt Nam là tài nguyên không tái tạo, có trữ lượng hạn chế, vì vậy phải được điều tra, thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ tốt môi trường sinh thái, kết hợp phát triển. Chính sách đảm bảo khoáng sản được bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả đã được thực hiện thông qua: các chính sách về quy hoạch, chính sách về tài chính (thuế và phí các loại, đấu giá hoặc thu tiền cấp quyền, các chính sách về ưu đãi đầu tư công nghệ trong khai thác và chế biến khoáng sản…).

Chính sách khoáng sản có nhiều nguyên nhân hạn chế do: (i) tiến độ ban hành văn bản dưới luật vẫn còn chậm; (ii) một số quy định pháp luật liên quan đến quản lý, khai thác khoáng sản còn bất cập; (iii) chất lượng văn bản quy phạm pháp luật ban hành chưa cao. Cùng với đó quá trình thực thi chính sách còn gặp nhiều bất cập: (i) phân cấp quản lý chưa khoa học, sự phối hợp quản lý, trao đổi thông tin giữa các Bộ Ngành chưa hiệu quả; lực lượng cán bộ chuyên trách ở địa phương về khoáng sản còn ít dẫn đến thực thi quản lý khoáng sản chưa đầy đủ (ii) khoa học công nghệ còn lạc hậu; (iii) minh bạch trong khai thác khoáng sản của Việt Nam còn thấp. Xu hướng hợp tác quốc tế ngày càng chặt chẽ, hợp tác trong AEC về lĩnh vực khoáng sản tiếp tục được chú trọng. Chính sách khoáng sản Việt Nam sẽ chịu tác động từ các xu hướng: (i) gia tăng dự trữ và hạn chế xuất khẩu khoáng sản; (ii) tăng cường kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia trên thế giới; (iii) sự thay đổi công nghệ và tiêu dùng đến tài nguyên khoáng sản; (iv) cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gia tăng các cuộc xung đột liên quan đến tài nguyên khoáng sản; (v) xu hướng xóa bỏ thuế quan trong hội nhập kinh tế.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách khai thác khoáng sản

(i) Xây dựng đồng bộ chính sách khai thác khoáng sản phù hợp cam kết quốc tế

Rà soát sửa đổi, điều chỉnh các chính sách liên quan tới quản lý, khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản đảm bảo tính rõ ràng. Tăng cường kiểm soát chất lượng công tác xây dựng để kịp thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính để ngày càng hoàn thiện văn bản pháp luật về khoáng sản. Giảm thiểu những bất cập, sai sót, chồng chéo, tiêu cực, không khả thi, phiến diện, mang tính cục bộ, có khuynh hướng bảo hộ cho lợi ích nhóm.

Quy định rõ ràng về các loại khoáng sản cho phép xuất khẩu thông qua Danh mục cụ thể, đồng thời nêu rõ lộ trình cắt giảm việc xuất khẩu khoáng sản, nguyên liệu thô. Để nâng cao hiệu quả nguồn thu trong khai thác khoáng sản cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định về phương pháp tính, mức thu, quản lý nguồn thu phù hợp với điều kiện thực tế theo hướng tăng thuế suất đối với thuế tài nguyên và giảm thuế suất đối với thuế xuất khẩu khoáng sản. Xây dựng hệ thống thông tin về trung tâm dữ liệu về hoạt động khoáng sản, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột lợi ích trong khai thác, sử dụng khoáng sản, tạo ra cơ sở pháp lý cho xã hội có thể giám sát thực hiện các chính sách nghĩa vụ của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.

(ii) Đổi mới, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại trong khai thác khoáng sản

Có chính sách về tài chính và nhân lực trong đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ về thăm dò, điều tra và chế biến sâu khoáng sản. Ban hành các chính sách hỗ trợ tín dụng cho đổi mới công nghệ khai thác, chế biến, xử lý khoáng sản, nguyên liệu thô. Có chính sách thuế quan hợp lý đối với các công nghệ sản xuất sản phẩm “tinh” trong khai khoáng. Hỗ trợ nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp liên quan. Sử dụng các dây chuyền sản xuất công nghệ và kỹ thuật chế biến tiên tiến từ các nước có ngành công nghiệp phát triển trong và ngoài khu khu vực AEC. Kiên quyết loại bỏ và không chấp thuận đầu tư khai thác mới cho các doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu, hệ số thu hồi khoáng sản thấp, gây ô nhiễm môi trường, quy mô bé, không có đủ năng lực tài chính để áp dụng những dây chuyền sản xuất hiện đại.

(iii) Nâng cao hiệu quả quản trị, thực thi chính sách và quản lý nguồn thu trong khai thác khoáng sản

Tăng cường hiệu quả về quản lý và tổ chức thực hiện tốt quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản đã được phê duyệt. Tăng cường thanh - kiểm tra, hậu kiểm, xử lý nghiêm hành vi vi phạm liên quan đến môi trường và sinh kế người dân tại những khu vực khai thác mỏ. Rà soát tình hình hoạt động của các tổ chức, cá nhân để phân loại, đánh giá thực trạng khai thác của từng mỏ về mức độ tuân thủ pháp luật, thống kê trữ lượng khai thác phục vụ thu tiền cấp quyền khai thác nộp ngân sách nhà nước theo quy định. Có chế tài xử phạt, răn đe với các hoạt động xuất khẩu trái phép và gian lận chất lượng, chế biến bất hợp pháp. Ban hành quy chế minh bạch thông tin trong các hoạt động khoáng sản. Theo dõi, dự báo về giá, diễn biến nhu cầu khoáng sản trên thế giới và tác động giá xuất khẩu khoáng sản Việt Nam để có chính sách điều chỉnh sản lượng xuất khẩu, định hướng điều chỉnh giá tính thuế tài nguyên kịp thời và phù hợp đối với các dạng khoáng sản.

(iv) Một số giải pháp khác

Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, cộng đồng trong hoạt động khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường. Phổ biến và nâng cao kiến thức về các diễn biến, xu hướng chính sách khoáng sản của các nước trong và ngoài AEC. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý cũng như cho lãnh đạo doanh nghiệp để nắm rõ những quy định thực thi và lộ trình mà Việt Nam đã cam kết. Thiết lập các kênh chia sẻ thông tin, diễn đàn với các doanh nghiệp, đối tác trong hoạt động khoáng sản. Đẩy mạnh hình thức khuyến khích, hỗ trợ các sáng kiến về những đóng góp của doanh nghiệp khai khoáng trong AEC đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường.

 

CN. Nguyễn Hữu Đạt, TS. Lại Văn Mạnh
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

(Bài viết đã được đăng trên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường Kỳ 1-Tháng 6/2018)

 

Tài liệu tham khảo

1. The ASEAN Secretariat: “ASEAN Community Progress Monitoring system 2017”, 2017.

2. Bộ Công thương: Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2016 và 2017.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường: Báo cáo đề án “Các cơ chế phối hợp trong giải quyết những vấn đề môi trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, 2017.

4. Ban Thư ký ASEAN: “Bản Kế hoạch chi tiết cho Tăng trưởng Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015: Tiến trình và Thành tựu chính”, 2015.

5. Tham luận tại hội thảo: “Đánh giá 05 năm thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật về khoáng sản” do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp Ban Kinh tế Trung ương và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, 2017.

6. Viện CODE, thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản: trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam.

NỘI DUNG KHÁC

Đề xuất Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường

8-11-2018

Ngành tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường thông qua các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một loại chính sách công. Để có cơ sở cho việc xây dựng Khung chương trình phân tích chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm phục vụ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chúng tôi đã nghiên cứu, so sánh các chương trình phân tích chính sách công của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. 

Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

13-11-2018

Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.

Chiến lược tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - Yêu cầu bức thiết của công tác quản lý nhà nước

14-11-2018

Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường là những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ 21. Nhiều Điều ước quốc tế đã được Việt Nam cam kết thực hiện nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, môi trường. Trong đó, phần lớn các văn bản đều có đề cập đến công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động thực tiễn trong vấn đề này.

Tiếp cận quá trình trong phân tích chính sách tài nguyên và môi trường

14-11-2018

Trên thế giới, khoa học nghiên cứu về chính sách công và phân tích chính sách với tư cách là một lĩnh vực khoa học xã hội, dựa trên những nguyên tắc kinh tế học, xã hội học, luật học và những chuyên ngành hàn lâm đã được hình thành từ lâu. Việc nghiên cứu các phương pháp phân tích chính sách và áp dụng trong ngành tài nguyên và môi trường có ý nghĩa rất quan trọng, tuy nhiên câu hỏi tiếp cận và sử dụng các công cụ/phương pháp phân tích chính sách trong quá trình phân tích chính sách ngành tài nguyên và môi trường như thế nào chưa được làm rõ trên cơ sở tiếp cận hoạch định chính sách như một quá trình. Việc xác định các phương pháp phân tích hay công cụ phù hợp có thể sử dụng hiệu quả cho từng khâu trong quá trình hoạch định chính sách cần được xem xét như một hướng tiếp cận mới. Bài viết xem xét các phương pháp phân tích chính sách định lượng và định tính và đánh giá sự phù hợp trong công tác hoạch định chính sách ngành tài nguyên và môi trường.Cách tiếp cận theo quá trình giúp khả năng ứng dụng của các phân tích chính sách được rõ ràng và sử dụng hiệu quả, phù hợp cho từng giai đoạn.

Ứng dụng cách tiếp cận foresight trong xây dựng chính sách quản lý tài nguyên và môi trường của Việt Nam

7-12-2018

Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề môi trường và tài nguyên nghiêm trọng đến mức ảnh hưởng trực tiếp tới cộng đồng. Vì vậy, trước bối cảnh như hiện nay, công tác quản lý cần phải có những định hướng trước mắt cũng như dài hạn trong xây dựng chiến lược, chính sách, muốn vậy cần phải làm tốt công tác dự báo. Khác với cách tiếp cận khép kín của dự báo truyền thống, cách tiếp cận dự báo dài hạn (foresight) được xem như là cách thức giao tiếp, trao đổi và thỏa thuận giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, từ đó phát hiện ra những giá trị khoa học, kinh tế, văn hóa và xã hội có đóng góp lớn cho xã hội chung trong tương lai, đồng thời tích hợp được trong quá trình dự báo các vấn đề cần thảo luận, đánh giá, phân tích, đề xuất chính sách thành một quá trình tổng hợp, liên ngành. Hiện nay, công tác dự báo chính sách của Việt Nam chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Do vậy, đây có thể được coi là cách tiếp cận mới hỗ trợ công tác dự báo trong xây dựng chiến lược ngành tài nguyên và môi trường.

Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp

3-9-2019

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phát sinh chất thải rắn (CTR) ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng, trở thành vấn đề môi trường bức xúc. Gần đây, Chính phủ đã yêu cầu giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) làm cơ quan đầu mối thống nhất quản lý về chất thải rắn. Bài báo này giới thiệu tổng quan về công tác quản lý chất thải rắn ở nước ta và đề xuất một số định hướng giải pháp trong thời gian tới.

Chiến lược, chính sách biển của một số nước trong khu vực Biển Đông và tác động đối với Việt Nam

11-9-2019

Mở đầu Khi loài người bước vào thế kỉ 21, thực tế cho thấy rằng các chiến lược, chính sách quản lý tổng hợp biển ngày càng trở nên cần thiết để sử dụng, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên môi trường biển. Hầu hết các quốc gia đã có những chính sách cụ thể để quản lý hiệu quả, sử dụng bền vững biển. Trong đó tập trung các hướng phổ biến: một là xây dựng tầm nhìn tổng hợp, toàn diện trong công tác quản lý biển, đại dương và khu vực đới bờ trong quyền tài phán quốc gia, hai là phát triển hài hòa với các luật, chính sách liên quan đến biển đã có, ba là thúc đẩy phát triển bền vững biển và đới bờ, bảo vệ đa dạng sinh học và các hệ sinh thái và bốn là đưa ra các định hướng hướng dẫn để điều phối, giúp gắn kết hài hòa quyết định, hành động của các cơ quan ban ngành liên quan đến biển… mới thực sự phát triển trong những năm gần đây.

Các mô hình kinh tế tuần hoàn Việt Nam: Cơ hội định hướng phát triển

4-10-2019

1. Mở đầu Các mô hình phát triển kinh tế truyền thống - kinh tế tuyến tính (Linear Economy), dựa trên nguyên lý khai thác tài nguyên từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường, với các mô hình này dẫn đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gia tăng chất thải và gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Để giải quyết nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường cần phải thay đổi cách tiếp cận chuyển đổi từ các mô hình “ kinh tế tuyến tính” sang “kinh tế tuần hoàn”, trong đó tài nguyên đầu vào, chất thải, khí thải và năng lượng được tối thiểu hóa ngay từ trong quy trình sản xuất và tiêu dùng từ thiết kế, bảo trì, sửa chữa, tái sử dụng, tái sản xuất, tân trang và tái chế lâu dài dựa trên động lực kinh tế, hướng đến một nền kinh tế phát thải bằng không.

Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam - thực trạng và khuyến nghị

14-11-2019

Ngày nay, xu hướng cạn kiệt của các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng đẩy mạnh khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển và làm giàu từ biển. Cùng với những đóng góp to lớn từ khai thác tài nguyên biển vào quá trình phát triển chung của đất nước, môi trường biển ở nhiều khu vực đang đứng trước nhiều thách thức. Ô nhiễm biển đến mức báo động đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng, cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Bài viết này trình bày thực trạng các vấn đề môi trường biển đang đối mặt hiện nay ở nước ta và tổng kết một số khuyến nghị về hướng giải pháp cụ thể nhằm hướng đến quản lý bền vững và bảo vệ môi trường biển.

Factors that affect land values and the development of land value maps for strenthening policy making in Vietnam: The case study of non-agricultural land in Quang Ninh province, Vietnam

3-12-2019

This study is a part of National Science and Technology Program on climate change response, natural resources and environment management from 2016 to 2020. The overall objectives of the study are: re-systemizing the classical and modern theories as well as identifying the factors affecting the land values in Vietnam; developing procedures and methods of mapping suitable land value areas in order to support the Government in policy making and regulating land use rights market in Vietnam. The results have classified three groups of factors that have impacts on land values in Vietnam. In particular, based on the successful test results in Quang Ninh Province, Vietnam, the research team discussed issues relating to land management institutions, issues of prices, land values in the context of applying the universal ownership regime to land and developing a socialist-oriented market economy in Vietnam. These results show that “the use of value theory and the development of land value maps helps the Government effectively manage and regulate land use rights market in Vietnam. Keywords: land value, value zone map, non-agricultural land, Quang Ninh province, climate change.

Tổng quan về quản lý chất thải rắn trên thế giới và một số giải pháp cho Việt Nam

16-12-2019

Cùng với sự gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, chất thải rắn (CTR) đang gia tăng cả về khối lượng và chủng loại. Ở nước ta, công tác quản lý CTR còn nhiều bất cập như tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt nông thôn còn chưa cao; CTR sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn; tỷ lệ tái chế còn thấp; phương thức xử lý chủ yếu là chôn lấp không hợp vệ sinh… (Thắng N.T và cộng sự, 2019). Quản lý CTR yếu kém đã trở thành vấn đề nổi cộm, bức xúc ở nhiều địa phương thời gian qua như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Dương, Quảng Ngãi…, đặt ra nhu cầu bức thiết phải có các giải pháp hữu hiệu trong thời gian tới. Bài viết này có mục đích cung cấp tổng quan chung về tình hình quản lý CTR trên thế giới, để có sự so sánh, nhìn nhận về thực trạng quản lý CTR ở nước ta hiện nay. Từ đó, có thể đề xuất những giải pháp cải thiện và tăng cường công tác quản lý CTR trong thời gian tới.

Cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam

1-1-2020

1. Mở đầu Trải qua một quá trình phát triển của kinh tế thế giới từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, lên công nghiệp, công nghiệp hiện đại và hướng đến nền kinh tế số, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã đạt được những thành tựu to lớn, tuy nhiên cùng với đó là sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường gia tăng. Để khắc phục những vấn đề này nhằm đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, không thiếu hụt nguồn cung cấp đầu vào cho hệ thống kinh tế và giảm thiểu tối đa chất thải đưa ra môi trường, hướng đến một nền kinh tế không có chất thải, chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính (Linear Economy), dựa trên nguyên lý khai thác tài nguyên thiên nhiên từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải loại ra môi trường sang kinh tế tuần hoàn (Circular Economy), dựa trên nguyên lý chất thải đầu ra của hoạt động kinh tế sẽ được thu hồi trở lại đầu vào cho hệ thống kinh tế dưới dạng tài nguyên và không phát thải ra môi trường.