ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Lựa chọn cách ứng xử với môi trường

Ngày đăng: 25 | 12 | 2016

Năm 2016 là năm ghi nhận nhiều thảm họa môi trường, điều ấy như một lời cảnh tỉnh về cách lựa chọn của chúng ta đối với việc phát triển kinh tế xã hội trong cả một giai đoạn dài. Lúc này, thay vì chỉ chú trọng vào mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam cần hành động quyết liệt để biến những cam kết phát triển bền vững trở thành hiện thực, bắt đầu từ lựa chọn cách ứng xử với môi trường.

 

Môi trường đã quá ngưỡng chịu đựng

Năm 2016 là một năm ghi nhận nhiều sự cố về môi trường, trong đó có sự cố xả thải, gây ô nhiễm biển nghiêm trọng ở bốn tỉnh miền Trung của công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh. Thực trạng nhức nhối hiện nay có bắt nguồn từ việc, trong suốt thời gian dài, chúng ta ứng xử với môi trường thiếu sự tôn trọng, thậm chí có thời điểm, có nơi còn vắt kiệt môi trường để phục vụ cho mục tiêu thoát nghèo và “đốt cháy giai đoạn” tăng trưởng kinh tế. Vậy nên, có thể nói chúng ta chưa tránh được “vết xe đổ” của việc trả giá đắt về môi trường cho quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây là Trung Quốc.

Điều đó thể hiện ở việc, tài nguyên thiên nhiên không chỉ bị khai thác không bền vững, mà sử dụng cũng không hiệu quả. Khoáng sản bị khai thác để xuất khẩu, thiếu kiểm soát, gây suy thoái môi trường ở các khu vực khai thác. Đất đai bị thâm canh tăng năng suất, bạc màu do sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách. Rừng tự nhiên bị khai thác mạnh mẽ, rừng ngập mặn bị phá hủy để nuôi trồng thủy sản do đó đã giảm 67% diện tích so với năm 1943. Việc phát triển thủy điện vừa và nhỏ ồ ạt đã gây nhiều hệ lụy như gây mất rừng, làm suy kiệt dòng chảy, phá vỡ hệ sinh thái, xả lũ gây ngập lụt vùng hạ du. Nguồn lợi thủy sản bị suy giảm do đánh bắt quá mức, với các phương thức khai thác không bền vững…

Môi trường ở nhiều khu vực bị ô nhiễm nặng nề do phải chứa đựng lượng lớn chất thải, vượt quá khả năng tự hồi phục. Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2011-2015 cho thấy, môi trường không khí ở các đô thị lớn bị ô nhiễm bụi do hoạt động xây dựng, số lượng phương tiện tăng nhanh trong khi quy hoạch và cơ sở hạ tầng không đáp ứng nhu cầu. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý mới chỉ đạt khoảng 10%; các hồ, ao, kênh mương trong các đô thị nơi chứa đựng nước thải, bị ô nhiễm nặng nề. Sau hơn 20 năm thực thi Luật Bảo vệ môi trường, chúng ta vẫn còn khoảng 25% trong tổng số 283 khu công nghiệp, 95% trong tổng số gần 900 cụm công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải. Khoảng 60% chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn chưa được thu gom, xử lý. Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, các khu vực khai thác khoáng sản, xung quanh các nhà máy nhiệt điện, xi-măng, thép… chưa được ngăn chặn.

Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn biến phức tạp, khó lường và càng ngày càng gia tăng các tác động. Chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan, đã xuất hiện nhiều cơn bão có cường độ mạnh hơn, khó dự báo hơn. Lũ lụt do mưa lớn ở miền Trung; hạn hán nghiêm trọng ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và đặc biệt là BĐKH ở Đồng bằng sông Cửu Long trong năm 2016 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề. Có thể nói, thiên nhiên đang giận dữ và đang có những hành động đáp trả lại những tác động xấu, vô ý thức của con người lên môi trường tự nhiên, đòi hỏi con người phải có những hành động sửa chữa lỗi lầm mình gây ra.

Chọn cách quản trị hiệu quả

Trong bối cảnh phải đối mặt với nhiều thách thức về suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường và BĐKH, tháng 9-2015, Liên hiệp quốc đã chính thức thông qua và kêu gọi thực hiện Chương trình nghị sự 2030 với 17 mục tiêu về phát triển bền vững. Các mục tiêu này nhấn mạnh hoạt động bảo vệ, gìn giữ môi trường, theo đó, đến 2030, các nước cần phấn đấu để đạt được sự “tách rời” giữa tăng trưởng kinh tế và suy thoái tài nguyên, môi trường. Bên cạnh đó, năm 2015 cũng chứng kiến việc đạt được thỏa thuận Pa-ri về BĐKH, với cam kết có ý nghĩa lịch sử về cắt giảm phát thải các-bon, hướng tới mục tiêu giữ cho nhiệt độ trái đất không tăng quá 2oC vào cuối thế kỷ 21.

Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức sâu sắc yêu cầu phải bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. Nghị quyết các Đại hội Đảng XI, XII đã nhấn mạnh về phát triển nhanh, bền vững; phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với BĐKH. Các chiến lược quốc gia về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh… đã được ban hành, nhấn mạnh phát triển phải hài hòa với thiên nhiên, tôn trọng các quy luật tự nhiên, thân thiện với môi trường, từng bước chuyển dần sang tăng trưởng xanh, phát triển các-bon thấp. Mục tiêu đến năm 2020 là phải kiềm chế được mức độ gia tăng và đến 2030 phải ngăn chặn, đẩy lùi được xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái tài nguyên môi trường. Mặt khác Việt Nam cũng cam kết cắt giảm 8% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường vào năm 2030 để chung tay với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với BĐKH.

Ưu tiên trong bảo vệ môi trường hiện nay là phải đẩy mạnh hơn nữa phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường thông qua việc không để phát sinh cơ sở gây ô nhiễm mới, đồng thời giảm các nguồn thải đang gây ô nhiễm. Thực hiện tổng điều tra các nguồn thải trên toàn quốc; giám sát chặt chẽ đối với các cơ sở sản xuất có nguồn thải lớn, ngăn ngừa xảy ra các sự cố môi trường. Siết chặt các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường để hạn chế dòng công nghệ cũ, lạc hậu và chất thải tràn vào nước ta. Cần phải rà soát, đánh giá để hạn chế phát triển các loại hình sản xuất, công nghệ có tiềm năng gây ô nhiễm lớn, tiêu tốn tài nguyên. Đầu tư, đẩy mạnh việc quản lý, xử lý các loại chất thải; từng bước giải quyết các vấn đề môi trường tại các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, khu vực nông thôn.

Hơn nữa cần phải chú trọng việc quản lý, khai thác bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Cần nhìn nhận tài nguyên là các nguồn “vốn tự nhiên” mà thiên nhiên đã ban tặng, chúng ta có trách nhiệm không được làm thâm hụt, mà phải sử dụng một cách khôn khéo, thông minh, để có thể duy trì, phát triển… Không chỉ vậy, chúng ta cần quản lý sao cho có “lãi”, nghĩa là phải có được tài nguyên môi trường tốt hơn cho các thế hệ con, cháu của chúng ta.

Trong bối cảnh hiện nay, hơn bao giờ hết, cần phải biến tư duy, nhận thức về bảo vệ môi trường thành hành động; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng đi vào thực tế cuộc sống. Các bộ, ngành và địa phương phải quán triệt, nâng cao ý thức trách nhiệm về môi trường đối với thế hệ mai sau; loại bỏ tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế, bỏ qua các quan tâm về môi trường. Chẳng hạn như, cần hết sức cân nhắc việc thu hẹp diện tích khu bảo tồn biển Hòn Cau, việc nhận chìm 1,5 triệu tấn chất thải xuống biển ở Bình Thuận, hay phát triển dự án thép Cà Ná ở Ninh Thuận, các dự án sản xuất giấy và bột giấy ở Đồng bằng sông Cửu Long…

Đến lúc cần phải thực hiện quản trị môi trường hiệu quả bằng cách hoàn thiện thể chế, tăng trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và sự tham gia của cộng đồng, doanh nghiệp vào quản lý tài nguyên và môi trường ở nước ta.

 

TS. Nguyễn Trung Thắng
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
(Bài viết đã được đăng tải trên Báo Nhân dân cuối tuần, số 52 (1454), ngày 25/12/2016)

NỘI DUNG KHÁC

Nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp thực hiện các cam kết về tài nguyên và môi trường trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

21-2-2017

  Ngày 5/10/2015, sau 5 năm với 19 vòng đàm phán chính thức, Bộ trưởng Thương mại của 12 nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam đã ký thông qua Hiệp định TPP (văn bản chính thức được ký kết vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand). Đây là Hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên đưa các nội dung về môi trường thành một chương trong các cam kết (Chương 20 với 23 Điều). Điều này khẳng định vị trí của TN&MT như một nhân tố quan trọng trong các hoạt động thương mại và những đóng góp của thương mại đối với phát triển bền vững. Mục tiêu của Chương Môi trường là thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và môi trường; tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao hơn và thực thi hiệu quả luật pháp về môi trường; tăng cường năng lực của các Bên để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất khung bộ chỉ số giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA) trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam

25-2-2017

Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,… ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến con người và hệ sinh thái. Nhiều giải pháp thích ứng được tính đến và thực hiện, trong đó giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái là giải pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động ứng phó với BĐKH nhằm đạt được đồng lợi ích về bảo tồn ĐDSH và giảm nghèo. Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái cũng chỉ ra mối quan hệ không thể tách rời giữa con người và hệ sinh thái. EBA đặc biệt liên quan đến việc quản lý, bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái để cung cấp cho con người khả năng phục hồi đối với các tác động của BĐKH. Mục tiêu hướng tới của giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái là quản lý bền vững, bảo tồn và khôi phục các hệ sinh thái nhằm để cung cấp các dịch vụ sinh thái giúp người dân thích ứng với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, giảm khả năng dễ bị tổn thương và nâng cao khả năng phục hồi trước những rủi ro, tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra.

Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển

9-3-2017

Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) đã thông qua Tuyên bố chung “Tương lai chúng ta mong muốn” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển do vấn đề chất thải nhựa trên biển gây ra. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 25/9/2015. Chương trình nghị sự đưa ra một kế hoạch hành động gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và 169 chỉ tiêu cụ thể. Mục tiêu 11, 12 và 14 đặc biệt quan hệ mật thiết tới vấn đề rác thải nhựa trên biển, dù cả 17 mục tiêu đều ít nhiều liên quan.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động tài nguyên và môi trường để đưa ra các phương án đề xuất, đề tài nghiên cứu mức độ cao hơn, phù hợp thực tiễn của Việt Nam

19-4-2017

Do mối quan hệ tương tác phức tạp của các yếu tố (kinh tế, xã hội và tài nguyên, môi trường) chưa được xem xét, đánh giá một cách khoa học và toàn diện nên việc xây dựng chính sách, chiến lược khả thi chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Mô hình hóa được coi là một công cụ hiệu quả, có thể giúp kiểm tra, đánh giá những tác động về kinh tế, sinh thái và môi trường của các chính sách khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, từ đó, xây dựng các phương án, đề xuất, định hướng thích hợp. Việc nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động, xu thế tài nguyên và môi trường không chỉ có ý nghĩa khoa học về phát triển công cụ dự báo mới trong trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường ở Việt Nam mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong phục vụ, hoạch định các chính sách, chiến lược hiệu quả lâu dài.

Monitoring influence of urbanization on urban thermal environment using multi-temporal LANDSAT imagery: application to Da Nang city

25-4-2017

This study illustrates urbanization in Da Nang city and its impacts on local thermal environments using remote sensing. In this study, multi-generation Landsat images from 1990, 1995, 2000, 2005, 2010 and 2014, were used to assess the city’s urban expansion and accompanied land surface temperature (LST) characteristics. Results showed that Da Nang urban expanded twice in 2014 (8,634 ha) comparing to 1990 (4,485 ha) and high temperature anomalies were closely associated with built-up and bare-soil land-covers. As consequence, areas covered by the highest LST correspondently expanded from centres of Thanh Khe, Hai Chau districts to mostly all 6 present downtown districts. The mean LST difference between the urban downtown area and the suburban area tends to increase over time, from 7.3 oC in 1990 to 11.9 oC in 2014. In the context of moving towards “a friendly environmental Da Nang city”, this  study  provides  useful  information  for  understanding  the  local  climatic  and  environment  changes  that  occurred  during  rapid urbanization.

Tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

5-10-2018

Vấn đề tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra đã được hình thành và phát triển qua các hội nghị các bên (COP) của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đó, tổn thất và thiệt hại (TT&TH) lần đầu tiên được đề cập trong Kế hoạch hành động Bali ở COP 13 năm 2007, đến COP 16 (năm 2010), Hội nghị đã đưa “tổn thất và thiệt hại” thành một chương trình làm việc (work program) trong Khung khổ các hoạt động thích ứng Cancun (Cancun Adaptation Framework). Ở COP 19 năm 2013, Hội nghị đã thiết lập Cơ chế Vac-sa-va về tổn thất và thiệt hại (Warsaw International Mechanism for Loss and Damage) đồng thời đã thành lập Ủy ban về TT&TH. Gần đây nhất, Thỏa thuận lịch sử về BĐKH ở Pari, COP 21 năm 2015, cũng đã đề cập và yêu cầu “các bên tham gia (UNFCCC) phải tăng cường hiểu biết, hành động, hỗ trợ, bao gồm cả thông qua Cơ chế Vac-sa-va, trên cơ sở hợp tác, về các tổn thất và thiệt hại từ các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra” (UNFCCC, 2015).

Bàn về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và định hướng phát triển năng lượng tái tạo

5-10-2018

  Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.

Nghiên cứu tính toán độ ẩm của đất khu vực Bắc Tây Nguyên sử dụng ảnh Landsat 8

11-10-2018

Tính toán độ ẩm của đất sử dụng dữ liệu vệ tinh là một trong những ứng dụng cơ bản. Giám sát độ ẩm của đất giúp chúng ta quan trắc được hạn hán xảy ra tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Nghiên cứu này sử dụng các kết quả đo, tính toán độ ẩm của đất trong phòng thí nghiệm và phân tích ảnh vệ tinh Landsat 8 OLI thu được trong tháng 3 năm 2015 để xây dựng phương trình tính toán độ ẩm của đất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Kết quả phân tích cho thấy độ ẩm của đất có quan hệ chặt chẽ với tỷ số kênh 5 trên kênh 7 của ảnh Landsat 8 bằng phương trình hàm số logarit (r2=0.73, SE = 0.07). Độ ẩm của đất nhỏ hơn 90% có độ tương quan cao với khu vực chịu ảnh hưởng của hạn hán và điều kiện khí hậu tại khu vực Bắc Tây Nguyên.

Liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - nhìn từ vai trò của cơ quan chính quyền địa phương

19-10-2018

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã chỉ rõ quan điểm: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng”. Giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề chung của Chính phủ, của từng địa phương, mà các địa phương cần phải bắt tay, hợp nhất cùng giải quyết vấn đề chung mà xã hội đang phải đối mặt. Bài viết này nhằm phân tích vai trò và đưa ra một số đề xuất khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tham gia liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu giám sát độ trong của nước biển vịnh Hạ Long sử dụng ảnh vệ tinh Landsat 8

24-10-2018

Nghiên cứu này nhằm trình bày phương pháp tính toán độ trong của nước vịnh Hạ Long sử dụng dữ liệu thu được từ ảnh Landsat 8. Trong đó, các phép phân tích tuyến tính giữa phổ phản xạ đo được thực tế trên bề mặt nước hoặc phổ phản xạ của ảnh Landsat 8 và độ trong của nước vịnh đo cùng thời kỳ đều cho giá trị tương quan cao giữa giá trị độ sâu thấu quang đo bằng đĩa Secchi (thông số hiển thị độ trong của nước) của nước vịnh với phổ phản xạ của dải sóng đỏ ứng với phổ phản xạ thu được ở kênh 4 ảnh Landsat 8. Dựa vào mối quan hệ này, độ trong nước vịnh Hạ Long có thể tính toán sử dụng hàm số mũ của phổ phản xạ của kênh 4 của ảnh. Kết quả tính toán thử nghiệm thu được ở các ảnh vào các thời điểm khác nhau đều cho giá trị có độ chính xác cao so với thông số đo đạc thực tế được tiến hành bởi Ban Quản lý vịnh Hạ Long. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ảnh vệ tinh Landsat trong giám sát các thông số chất lượng môi trường nước vịnh Hạ Long, đặc biệt là độ trong của nước vịnh cho hiệu quả cao cả về chất lượng và kinh tế trong giám sát quản lý môi trường vịnh.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ nhằm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”

27-10-2018

Nghị quyết 24-NQ/TW sau khi ban hành đã được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương; các chủ trương, chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa; vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) trong việc triển khai Nghị quyết đã được khẳng định; nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý tài nguyên (QLTN) và bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định xét trong bối cảnh mới đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì lý do đó, sau 5 năm triển khai Nghị quyết cần có sự đánh giá đầy đủ và toàn diện vai trò của KHCN trong việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn, nhất là xét trong bối cảnh mới của cách mạng 4.0 và những biến đổi trên thế giới, những ứng dụng của KHCN cho phát triển kinh tế-xã hội.

Nâng cao hiệu quả chính sách khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nhìn từ cộng đồng kinh tế ASEAN

2-11-2018

Tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, ASEAN luôn tăng cường, đề cao vai trò hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản. AEC ra đời sẽ hứa hẹn tương lai ngành khai khoáng ở khu vực ngày càng trở nên bùng nổ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ sản xuất hàng hóa... Điều này sẽ tác động đến hoạt động khoáng sản của Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam cần phải thích ứng, nâng cao hiệu quả các chính sách khoáng sản.