ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

Ngày đăng: 05 | 10 | 2018

Vấn đề tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra đã được hình thành và phát triển qua các hội nghị các bên (COP) của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đó, tổn thất và thiệt hại (TT&TH) lần đầu tiên được đề cập trong Kế hoạch hành động Bali ở COP 13 năm 2007, đến COP 16 (năm 2010), Hội nghị đã đưa “tổn thất và thiệt hại” thành một chương trình làm việc (work program) trong Khung khổ các hoạt động thích ứng Cancun (Cancun Adaptation Framework). Ở COP 19 năm 2013, Hội nghị đã thiết lập Cơ chế Vac-sa-va về tổn thất và thiệt hại (Warsaw International Mechanism for Loss and Damage) đồng thời đã thành lập Ủy ban về TT&TH. Gần đây nhất, Thỏa thuận lịch sử về BĐKH ở Pari, COP 21 năm 2015, cũng đã đề cập và yêu cầu “các bên tham gia (UNFCCC) phải tăng cường hiểu biết, hành động, hỗ trợ, bao gồm cả thông qua Cơ chế Vac-sa-va, trên cơ sở hợp tác, về các tổn thất và thiệt hại từ các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra” (UNFCCC, 2015).

Theo đánh giá của nhiều tổ chức, Việt Nam là một trong những nước dễ bị tổn thương nhất và chịu nhiều tác động của BĐKH.Vì vậy, việc nghiên cứu, nhận diện một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống về các loại hình TT&TH do BĐKH gây ra ở Việt Nam và các phương pháp đánh giá để từ đó có các giải pháp ứng phó là rất quan trọng và cần thiết. Với nhận thức TT&TH là vấn đề mới, chưa được nghiên cứu nhiều, bài viết này có mục đích chia sẻ, trao đổi những hiểu biết ban đầu từ rà soát tổng quan tài liệu và những vấn đề đặt ra đối với nước ta trong ứng phó với TT&TH.

1. Khái niệm về tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra

BĐKH đang diễn biến nhanh trong thế kỷ 21, đã và đang gây ra những TT&TH lớn về tài nguyên môi trường, về đời sống sản xuất, sinh hoạt của con người. Để ứng phó với BĐKH, con người hiện đang thực hiện các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (mitigation) và thích ứng với các tác động của BĐKH (adaptation).

Theo UNFCCC, TT&TH do BĐKH gây ra được hiểu là những thiệt hại không tránh khỏi sau khi đã thực hiện các biện pháp giảm nhẹ và thích ứng. Các TT&TH có thể là hậu quả của các hiện tượng thời tiết cực đoan nhất thời (sudden-onset events), như bão, lũ, lũ quét…, hoặc các quá trình diễn ra từ từ, qua thời gian (slow-onset events), như nước biển dâng, sa mạc hóa... TT&TH xảy ra đối với con người (như thiệt hại về sức khỏe, sinh kế…) và các hệ thống tự nhiên (như suy giảm đa dạng sinh học, hệ sinh thái…).

Theo UNFCCC, TT&TH có thể được phân loại thành: (i) TT&TH kinh tế (economic) và; (ii) TT&TH phi kinh tế (non-economic). TT&TH kinh tế là những tổn thất về tài nguyên, hàng hóa và dịch vụ có thể được trao đổi, mua bán trên thị trường. TT&TH phi kinh tế không thuộc các hạng mục có thể mua bán trên thị trường, là những TT&TH về tính mạng, sức khỏe, thay đổi nơi cư trú của con người; lãnh thổ; các di sản văn hóa; các tri thức bản địa; đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái (UNFCCC, 2013).

Ở nhiều nước đang phát triển và đặc biệt là các nước dễ bị tổn thương đối với BĐKH, trong nhiều trường hợp, các TT&TH là không thể phục hồi, ví dụ như sự mất mát về lãnh thổ, về các di tích lịch sử, văn hóa... Vì vậy, nhận biết đầy đủ và có các giải pháp quản lý rủi ro, ứng phó hữu hiệu với các TT&TH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách ứng phó với BĐKH, đặc biệt là đối với những quốc gia dễ bị tổn thương, chịu nhiều tác động tiêu cực của BĐKH.

2. Tổn thất và thiệt hại trong một số nghiên cứu trên thế giới

a) Về nhận thức, đánh giá về TT&TH

Nhìn chung, có nhiều nghiên cứu trên thế giới bàn luận nhiều về các thiệt hại do BĐKH, đặc biệt là các thiệt hại về kinh tế, tuy nhiên, cách hiểu về TT&TH cũng chưa thực sự hoàn toàn thống nhất.  Theo R. Verheyen, có ba loại TT&TH, gồm: (i) TT&TH tránh được (avoided); (ii) TT&TH không tránh được (unavoided) và; (iii) TT&TH không thể tránh được (unavoidable). Loại (i) là các TT&TH tránh được bởi các hoạt động thích ứng và giảm thiểu; loại (ii) là các TT&TH có thể tránh nhưng đã không tránh được do các nỗ lực giảm nhẹ và thích ứng không phù hợp; loại (iii) là không thể tránh được cho dù đã thực hiện các nỗ lực thích ứng và giảm nhẹ đúng cách (Erin Roberts et al., 2014). Như vậy, có thể thấy rằng, cách hiểu về TT&TH trong nghiên cứu này có khác và loại TT&TH thứ (iii) mới đúng như khái niệm của UNFCCC.

Bên cạnh các thiệt hại về kinh tế, một số nghiên cứu gần đây cũng đã bắt đầu đề cập đến các thiệt hại phi kinh tế. A. Nishat và cộng sự (2013) đã thực hiện nghiên cứu về các TT&TH do tác động của nước biển dâng ở Bangladesh, đề cập đến các thiệt hại đối với sản xuất nông nghiệp, thủy sản (thiệt hại kinh tế) cũng như thiệt hại về hệ sinh thái rừng ngập mặn và các vấn đề xã hội và sinh kế (thiệt hại phi kinh tế) (Nishat et al, 2013). Trong một nghiên cứu khác cũng ở Bangladesh, các TT&TH phi kinh tế cũng đã được đánh giá ở một số khu vực ven biển gồm: (i) sự ảnh hưởng đến giáo dục và sức khỏe thể chất và tinh thần của người dân; (ii) tác động đến các phong tục, tập quán truyền thống (traditions), đến mối quan hệ họ hàng, người thân… và; (iii) các thiệt hại về đa dạng sinh học (các loài) và các dịch vụ hệ sinh thái do xâm nhập mặn (ADB, 2014).

Trong nghiên cứu về đảo Kosrae, Micronesia, một quốc đảo nhỏ ở phía nam Thái Bình Dương (nơi hàng năm mực nước biển dâng cao 10 mm so với trung bình toàn cầu là 3.2 mm), I.Monnereau I và S. Abraham (2013) dự báo các thiệt hại về mất mát lãnh thổ do xói lở bờ biển, triều dâng và các TT&TH khác.

b) Về phương pháp xác định TT&TH

Theo UNFCCC, để đánh giá/lượng giá được các TT&TH, có thể dùng nhiều phương pháp, ví dụ như: lượng giá kinh tế (economic valuation); phân tích đa tiêu chí (multicriteria decision analysis-MCDA); sử dụng các chỉ số tổng hợp về rủi ro (composite risk indices); phương pháp định tính/bán định lượng (qualitative/semi-quantitative methods)…. Việc lựa chọn phương pháp phù hợp phụ thuộc vào loại hình TT&TH và điều kiện, bối cảnh cụ thể khi TT&TH xảy ra (UNFCCC, 2013).

Từ những năm 70 của thế kỷ 20, khung phương pháp đánh giá TT&TH do thiên tai (Damage and Loss Assessment - DALA) đã được Ủy ban kinh tế khu vực Châu Mỹ và Caribe (UN ECLAC) xây dựng (UN ECLAC, 2003).Vào những năm 1990s, DALA được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế (Thái Lan, Philliphines, Ngân hàng Thế giới...) sử dụng rộng rãi hơn để đánh giá TT&TH về kinh tế - xã hội sau thiên tai. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, DALA cũng tồn tại môt số hạn chế nhất định, như không đánh giá được tất cả các đặc tính tâm, sinh lý, vấn đề giới... của các nạn nhân do thiên tai gây ra. Vì vậy, năm 2014, UN ECLAC đã xây dựng và phát hành sổ tay hướng dẫn phiên bản thứ 3, trở thành khung phương pháp đánh giá TT&TH tổng hợp đầu tiên lồng ghép việc đánh giá TT&TH kinh tế với các vấn đề phi kinh tế, như vấn đề giới, môi trường (UN ECLAC, 2014).

Bên cạnh DALA, có một số cách tiếp cận đánh giá TT&TH, như: đánh giá nhu cầu phục hồi sau thiên tai (Post Disaster Needs Assessment - PDNA); đánh giá quản lý khẩn cấp của Úc (Emergency Management of Australia - EMA). PDNA gồm DALA và đánh giá nhu cầu phục hồi sau thiên tai của con người; PDNA hướng tới giải quyết các vấn đề về TT&TH một cách dài hạn. Ngân hàng Thế giới, Quỹ toàn cầu về giảm nhẹ và phục hồi sau thiên tai, Pakistan và một số nước khác đã áp dụng PDNA, trong khi Úc lại sử dụng cách tiếp cận đánh giá quản lý khẩn cấp (EMA) với ưu điểm là đánh giá được các TT&TH kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn (APEC, 2009).

Trong nghiên cứu “Giá trị môi trường, các phương pháp lượng giá và đánh giá thiệt hại do thiên tai”, C. Dosi đã tổng hợp các khái niệm về giá trị môi trường từ góc độ kinh tế, đồng thời tổng quan các phương pháp định giá thiệt hại bằng tiền, qua đó làm cơ sở cho việc tích hợp các biện pháp giá trị vào ước tính thiệt hại sau thiên tai. Các phương pháp lượng giá thiệt hại môi trường bao gồm phương pháp giá thị trường, phương pháp thay đổi năng suất, chi phí thay thế… (Cesare Dosi, 2000).

c) Về biện pháp ứng phó với các TT&TH

Về mặt lý thuyết, để ứng phó với các TT&TH cần phải thực hiện đồng thời giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và thích ứng với BĐKH. Tuy nhiên, lịch sử phát thải khí nhà kính trên toàn cầu đã gây ra BĐKH cùng với các tác động của nó ở một mức độ nhất định mà không thể tránh được. Vì vậy, cần phải nhân rộng các tập quán thích ứng tốt, đồng thời xây dựng và áp dụng các phương pháp ứng phó với các TT&TH không thể tránh khỏi (UNFCCC, 2013).

Trong nghiên cứu tổng quan về TT&TH, E. Roberts và cộng sự đã rà soát các nghiên cứu và nhận thấy rằng, TT&TH sẽ lớn hơn nếu không áp dụng các biện pháp thích ứng, hoặc các biện pháp không được thực hiện đầy đủ, không có tầm nhìn dài hạn. Ở cấp quốc gia, cần nghiên cứu, xây dựng và áp dụng các công cụ quản lý rủi ro toàn diện, bao gồm giảm nhẹ và chuyển hóa rủi ro, thiết lập cơ chế bảo hiểm và mạng lưới an sinh xã hội. Bên cạnh đó, cần tăng cường sự điều phối và hợp tác giữa các bộ ngành và các cơ quan liên quan trong ứng phó với TT&TH. Đặc biệt, cần tăng cường sự hài hòa, phối kết hợp giữa các hoạt động thích ứng với BĐKH và các chương trình giảm nhẹ rủi ro về TT&TH. Thông thường, các chính sách thích ứng với BĐKH cấp quốc gia tập trung vào các tác động lâu dài của BĐKH trong khi các chính sách ở cấp địa phương thường tập trung giảm nhẹ rủi ro bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra (Erin Roberts et al., 2014).Tương tự, ActionAids, Care International và WWF cũng chỉ ra rằng, cần có một khung phương pháp toàn diện để giải quyết các vấn đề về TT&TH, bao gồm: (i) phòng chống và giảm nhẹ thiên tai và; (ii) đền bù và phục hồi TT&TH, bao gồm các TT&TH kinh tế và phi kinh tế. Theo đó, việc nghiên cứu đánh giá TT&TH phi kinh tế cần phải được tăng cường trên cơ sở các nội dung về TT&TH đã được Cơ chế Vác-sa-va đề cập (ActionAid, Care and WWF, 2012; ActionAid, Care 2015).

Về các loại hình giải pháp ứng phó, E. Roberts và cộng sự (2014) cho rằng các giải pháp cứng (như xây dựng các đê, kè biển, trồng cây chắn sóng…) là chưa đủ để phòng chống và giảm nhẹ TT&TH một cách toàn diện bởi chúng chưa khắc phục được một số TT&TH phi kinh tế như hệ sinh thái và di sản văn hóa. Vì vậy, các nội dung, nhiệm vụ của Cơ chế Vac-sa-va về TT&TH cần phải dành một phần nguồn lực cho việc xử lý các TT&TH có thể phòng tránh trong tương lai. Tổng quan lại, các tác giả cho rằng, để phòng tránh và giảm nhẹ TT&TH đòi hỏi cần có những hành động ở nhiều cấp và nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm: giảm nhẹ, thích ứng, quản lý tổng hợp rủi ro và phát triển bền vững. Các cơ chế, tổ chức hiện nay đang được quản lý và vận hành một cách đơn lẻ, mang tính kinh nghiệm, truyền thống, cần có sự điều phối và hợp tác tốt hơn giữa các bên liên quan. Trong khi đó, để xử lý các TT&TH cần có sự tập trung và nỗ lực lớn hơn trong nghiên cứu và hành động chính sách. Các nỗ lực toàn cầu cũng như nỗ lực của các quốc gia trong việc phòng tránh các tác động phát sinh của BĐKH chưa đủ để xử lý các vấn đề liên quan đến TT&TH vì vậy cần có sự chuẩn bị để xây dựng một xã hội có khả năng phòng tránh và chống chịu với TT&TH (Erin Roberts et al., 2014).

3. Thực trạng chính sách ứng phó và tình hình nghiên cứu về tổn thất và thiệt hại ở nước ta

a) Chính sách, pháp luật liên quan đến thiệt hại do BĐKH

Trong thời gian qua, thể chế và chính sách, pháp luật về ứng phó với BĐKH ở nước ta đang dần được hoàn thiện. Tổ chức bộ máy về BĐKH đang từng bước được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương; các văn bản chính sách, pháp luật tiếp tục được xây dựng, ban hành như Nghị quyết 24/NQ-TW của BCH TW Đảng, Chiến lược quốc gia về BĐKH, tăng trưởng xanh, kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Pari, Luật BVMT 2014... Là nước chịu nhiều tác động của BĐKH, đặc biệt là thiên tai, Việt Nam cũng đã và đang xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật để ứng phó với các TT&TH như Luật Phòng chống thiên tai 2013, Luật Khí tượng thủy văn 2015. Luật Phòng, chống thiên tai đã quy định việc thống kê, đánh giá thiệt hại do thiên tai gây ra, nhu cầu cứu trợ, hỗ trợ và đề xuất phương án khắc phục hậu quả. Theo đó, các Bộ, ngành và UBND các cấp có trách nhiệm tổng hợp, thống kê, đánh giá, báo cáo thiệt hại; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp và đánh giá thiệt hại do thiên tai gây ra trong phạm vi cả nước.

Từ năm 2006, Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương đã ban hành Sổ tay hướng dẫn đánh giá thiệt hại và đánh giá nhu cầu cứu trợ do thiên tai gây ra, trong đó tập trung vào các thiệt hại về tài sản và tính mạng con người (Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, 2006). Thực hiện Luật Phòng, chống thiên tai 2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 43/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT ngày 19/6/2013 hướng dẫn thống kê, đánh giá thiệt hại do thiên tai. Thông tư đã hướng dẫn chi tiết nội dung báo cáo, các chỉ tiêu, biểu mẫu thống kê các thiệt hại vật chất do thiên tai gây ra.

Thực hiện Luật Khí tượng thủy văn 2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư 08/2016/TT-BTNMT ngày 16/5/2016 về Quy định việc đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và đánh giá khí hậu quốc gia, theo đó, đánh giá tác động của BĐKH bao gồm việc phân tích, đánh giá các tác động tiêu cực, tích cực, ngắn hạn và dài hạn của BĐKH đến tài nguyên môi trường, điều kiện sống, hoạt động kinh tế - xã hội và các vấn đề liên ngành, liên vùng, liên lĩnh vực.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ chế bảo hiểm đã được áp dụng thử nghiệm theo Quyết định số 315/QÐ-TTg ngày 01/3/2011 về việc thí điểm thực hiện bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2013 tại  20 tỉnhđối với trồng trọt (cây lúa), chăn nuôi (trâu, bò, lợn, gia cầm) và nuôi trồng thủy sản (cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân trắng). Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 58/2018/NĐ-CP ngày 18/4/2018 về bảo hiểm nông nghiệp, trong đó bao gồm cả các loại hình thiệt hại do thiên tai (bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá, sương muối, động đất, sóng thần).

b) Các nghiên cứu liên quan đến thiệt hại do BĐKH

Ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu về các thiệt hại do thiên tai và BĐKH. Từ năm 2008, Bộ  Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện Dự án“Điều tra, xác định nguyên nhân và đánh giá ảnh hưởng của thiên tai (bão, lũ lụt) đến môi trường và đề xuất giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục ô nhiễm tại các vùng đông dân cư, phân lũ, thoát lũ và khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng bởi lũ lụt” tại các vùng tiêu biểu bị tác hại của cơn bão số 5/2007 thuộc 5 tỉnh: Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008). Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu (IMHEN) và UNDP đã nghiên cứu, xây dựng Tài liệu hướng dẫn “Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng” (Trần Thục et al., 2010). Nghiên cứu “Lượng giá thiệt hại môi trường sau thiên tai trong bối cảnh biến đổi khí hậu: Nghiên cứu điển hình tại Thừa Thiên Huế” đã áp dụng khung lượng giá thiệt hại sau thiên tai của ECLAC (2007) bao gồm hai nội dung: (i) Đánh giá nhanh tác động môi trường sau thiên tai và; (ii) Đánh giá thiệt hại môi trường. Nghiên cứu đã áp dụng thành công các phương pháp lượng giá khác nhau để đánh giá thí điểm, thiệt hại môi trường do bão gây ra tại Thừa Thiên Huế (Nguyễn Hoàng Nam, Lê Hà Thanh, 2015).

Năm 2015, Việt Nam đã công bố “Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai và hiện tượng cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu, 2015” (Bá cáo SREX Việt Nam, 2015), do IMHEN nghiên cứu, xây dựng. Báo cáo đã nêu thiệt hại kinh tế do thiên tai liên quan đến thời tiết và khí hậu đã tăng lên, nhưng có dao động lớn về không gian và giữa các năm. Thiệt hại phi kinh tế có thể rất quan trọng trong một số lĩnh vực, ngành, nhưng thường không được tính đến (Trần Thục và các cộng sự, 2015).

Gần đây, vấn đề TT&TH cũng đã được một số nghiên cứu trong nước đề cập. Lê Minh Nhật và cộng sự đã phân tích về mối quan hệ giữa thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ rủi ro thiên tai dưới góc nhìn TT&TH. Nhóm tác giả cho rằng để giải quyết các vấn đề TT&TH thì cần phải tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH và năng lực phòng chống, giảm nhẹ rủi ro thiên tai (Lê Minh Nhật và các cộng sự, 2015). Về phương pháp đánh giá các giá trị kinh tế của tài nguyên, môi trường, Lê Kim Anh cho rằng, các nghiên cứu TT&TH kinh tế ở Việt Nam thường áp dụng ba cách tiếp cận phổ biến, gồm: (i) đánh giá phân tích tác động (Impact Analysis Valuation) được sử dụng để đánh giá thiệt hại của môi trường, tài nguyên khi chịu tác động BĐKH hay sự cố tràn dầu, ô nhiễm công nghiệp, thiên tai; (ii) Đánh giá từng phần (Partial Valuation) được sử dụng để đánh giá giá trị kinh tế của hai hay nhiều phương án sử dụng tài nguyên khác nhau; (iii) Đánh giá tổng thể (Total Economic Valuation) được sử dụng để đánh giá phần đóng góp tổng thể của tài nguyên, môi trường cho hệ thống phúc lợi xã hội (Lê Kim Anh, 2015). Một số nghiên cứu có liên quan có thể kể đến như: “Mối liên hệ giữa thích ứng với BĐKH, giảm thiểu rủi ro thiên tai và TT&TH” do Nguyễn Hữu Ninh, Trung tâm nghiên cứu giáo dục môi trường và phát triển (CERED) thực hiện; nghiên cứu “Các cơ chế chuyển giao rủi ro (risk transfer mechanism) ở Việt Nam: thực tế, cơ hội, thách thức” do Lê Thu Hoa thực hiện.

4. Nhận xét chung và đề xuất một số giải pháp

a) Nhận xét chung

Trước hết, vấn đề TT&TH do BĐKH đã được thế giới công nhận và ngày càng quan tâm, được UNFCCC đề cập bằng cơ chế Vac-sa-va (WIM) và là một nội dung quan trọng của Thỏa thuận Pari về BĐKH. Theo đó, các nước cần tăng cường nhận thức, hiểu biết về TT&TH; đẩy mạnh sự điều phối, hợp tác và; tăng cường sự hỗ trợ trong ứng phó với các TT&TH do BĐKH gây ra.

Thứ hai, về khái niệm, TT&TH được hiểu là những thiệt hại không thể tránh khỏi sau khi đã thực hiện các biện pháp giảm nhẹ và thích ứng; có thể được phân loại thành TT&TH kinh tế và TT&TH phi kinh tế. Phương pháp xác định các TT&TH kinh tế về cơ bản đã được nghiên cứu và thiết lập, tuy nhiên các phương pháp xác định các TT&TH phi kinh tế là chưa thực sự rõ ràng.

Thứ ba, các nước, các tổ chức trên thế giới đã bắt đầu triển khai thực hiện các nghiên cứu về TT&TH, về cơ sở lý luận, về các phương pháp đánh giá và các biện pháp để ứng phó. Theo Kreienkamp J. và L. Vanhala,trong tổng số 162 đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDCs) được rà soát, có 28% quốc gia đề cập đến TT&TH, trong đó có 44% các nước đảo nhỏ và 34% các nước kém phát triển. Các nước phát triển không đề cập đến TT&TH trong các NDC bởi vì muốn tránh các trách nhiệm về hỗ trợ và bồi thường tài chính cho các nước bị thiệt hại (Kreienkamp J. và L. Vanhala, 2016).

Cuối cùng, mặc dù bước đầu đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu song có thể thấy, vấn đề TT&TH do BĐKH ở Việt Nam mới chỉ được quan tâm nhiều ở khía cạnh các thiệt hại vật chất/kinh tế do thiên tai gây ra. Các TT&TH phi kinh tế, nhìn chung, mới chỉ dừng ở một số ít nghiên cứu. Một kế hoạch tổng thể quốc gia về thích ứng với BĐKH chưa được xây dựng, chưa có những giải pháp quản lý tổng hợp về ứng phó với TT&TH do BĐKH.

b) Một số giải pháp trong thời gian tới

TT&TH do BĐKH là vấn đề rất quan trọng đối với Việt Nam về lâu dài khi BĐKH đang diễn biến nhanh hơn dự báo, với những tác động ngày càng gia tăng. Vì vậy, trong thời gian tới cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần triển khai thực hiện các nghiên cứu về TT&TH do BĐKH, trong đó cần làm rõ cơ sở lý luận và các phương pháp đánh giá về TT&TH một cách có hệ thống; nhận diện đầy đủ các loại hình, quy mô, xu hướng về TT&TH; lượng giá, đánh giá các TT&TH do BĐKH ở nước ta. Hiện nay, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đang thực hiện nghiên cứu về TT&TH, trong đó tập trung vào các phương pháp xác định TT&TH, đặc biệt là các TT&TH phi kinh tế.

Thứ hai, cần tích cực phổ biến các kiến thức, hiểu biết, nâng cao nhận thức về TT&TH do BĐKH gây ra cho các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, đặc biệt ở những khu vực, địa phương có nguy cơ bị TT&TH cao.

Thứ ba, từng bước đưa nội dung TT&TH do BĐKH vào các văn bản quản lý, tích hợp vấn đề TT&TH trong các chiến lược, chính sách phát triển của quốc gia, ngành và địa phương. Trước hết, vấn đề TT&TH cần được bổ sung, cập nhật rõ ràng hơn trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), hiện đang được sửa đổi.

Thứ tư, về lâu dài, cần xây dựng các định hướng chiến lược, các giải pháp chính sách để ứng phó với TT&TH ở nước ta. TT&TH cần được đề cập rõ ràng trong chiến lược quốc gia về BĐKH và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan cho giai đoạn 2021-2030, đặc biệt trong Kế hoạch quốc gia về thích ứng với BĐKH. Cần xác định rõ mối liên hệ, sự phối kết hợp giữa quản lý rủi ro thiên tai và các giải pháp thích ứng với BĐKH để cùng hướng tới mục tiêu ứng phó hiệu quả với các TT&TH. Quá trình xây dựng chính sách cần có sự tham gia của đầy đủ các bên liên quan, đặc biệt là các khu vực, các cộng đồng chịu nhiều TT&TH.

Cuối cùng, triển khai thực hiện Thỏa thuận Pari trong thời gian tới, Việt Nam cần có những bước đi chủ động trong việc đàm phán quốc tế về BĐKH. Cùng với các nước chịu nhiều thiệt hại do BĐKH, Việt Nam cần tích cực đưa ra các bằng chứng, các đánh giá và dự báo về TT&TH do BĐKH, từ đó huy động sự hỗ trợ về tài chính, công nghệ của các nước phát triển, là những bên có trách nhiệm hỗ trợ các nước đang phát triển về giảm nhẹ, thích ứng và xử lý các TT&TH, theo như cam kết tại Công ước khung của Liên hợp quốc và Thỏa thuận Pari về BĐKH./.

TS. Nguyễn Trung Thắng, ThS. Ngân Ngọc Vỹ
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE)

(Bài viết được đăng trên Tạp chí Môi trường, số chuyên đề 3, tháng 9/2018)
Ảnh: Nguồn từ Internet

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. ActionAids, WWF, 2015, Loss and Damage: Climate reality in 21st century.
  2. ActionAid, Care, & WWF. (2012). Tackling the Limits to Adaptation: An international framework to address “loss and damage” from climate change impacts (pp. 19–23).
  3. APEC, 2009. Guidelines and best practices for post-disaster damage and loss assessment: Report from APEC Workshop on Damage Assessment Techniques (pp. 1–48).
  4. Asian Development Bank (ADB), Non-Economic Loss and Damage Caused by Climatic Stressors in Selected Coastal Districts of Bangladesh, 2014.
  5. Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, 2006, Sổ tay hướng dẫn đánh giá thiệt hại và đánh giá nhu cầu cứu trợ do thiên tai gây ra.
  6. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2008, Báo cáo Dự án “Điều tra, xác định nguyên nhân và đánh giá ảnh hưởng của thiên tai (bão, lũ lụt) đến môi trường và đề xuất giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục ô nhiễm tại các vùng đông dân cư, phân lũ, thoát lũ và khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng bởi lũ lụt”.
  7. Cesare Dosi, 2000, Environmemtal values, valuation methods and natural disaster damage assessment.
  8. Roberts E., Kees van der Geest, Koko Warner and Stephanie Andrei, 2014, Loss and damage: When adaptation is not enough, Environmental Development.
  9. Kreienkamp J. and L. Vanhala, 2016, Policy Brief, Climate Change Loss and Damage, Global Governance Institute.
  10. Lê Kim Anh, Đánh giá thiệt hại sau thiên tai: Một số vấn đề lý luận thực tiễn, Trung tâm nghiên cứu Biến đổi toàn cầu, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, 2015.
  11. Lê Minh Nhật, Mai Kim Liên, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Trà My, Mối quan hệ giữa thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ rủi ro thiên tai dưới góc nhìn tổn thất và thiệt hại, Tạp chí Khí tượng thủy văn số 657, tháng 9/2015.
  12. Nguyễn Hoàng Nam & Lê Hà Thanh, 2013, Lượng giá thiệt hại môi trường sau thiên tai trong bối cảnh biến đổi khí hậu: Nghiên cứu điển hình tại Thừa Thiên Huế.
  13. Nishat, A., Mukherjee, N., Roberts, E., Hasemann, A., 2013b. Loss and Damage from a Local Perspective in the Context of a Slow Onset Process: The Case of Sea Level Rise in Bangladesh. International Centre for Climate Change and Development (ICCCAD), Dhaka.
  14. Monnereau, I., Abraham, S., 2013. Limits to autonomous adaptation in response to coastal erosion in Kosrae, Micronesia. International Journal of Global Warming 5(4), 416-432.
  15. Trần Thục, Koos Neefjes, Tạ Thị Thanh Hương, Nguyễn Văn Thắng, Mai Trọng Nhuận, Lê Quang Trí, Lê Đình Thành, Huỳnh Thị Lan Hương, Võ Thanh Sơn, Nguyễn Thị Hiền Thuận, Lê Nguyên Tường, Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai và hiện tượng cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu (SEREX), NXB TN&MT và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam 2015.
  16. Trần Thục, Nguyễn Trọng Hiệu, Nguyễn Văn Thắng, Phạm Thị Thanh Hương, Vũ Thị Lan, Vũ Văn Thăng, Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam, Viện Khoa học KTTT & BĐKH-UNDP, 2010.
  17. UN ECLAC, 2003, Handbook on Estimating the Socio-Economic and Environmental Effects of Disaster.
  18. UN ECLAC, 2014, Handbook for Disaster Assessment. Santiago, Chile: United Nations.
  19. UNFCCC, 2013, Non-economic losses in the context of the work programme on loss and damage.
  20. UNFCCC, 2015, Paris Agreement, 2015 (Article 8).

NỘI DUNG KHÁC

Bàn về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và định hướng phát triển năng lượng tái tạo

5-10-2018

  Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.

Nghiên cứu tính toán độ ẩm của đất khu vực Bắc Tây Nguyên sử dụng ảnh Landsat 8

11-10-2018

Tính toán độ ẩm của đất sử dụng dữ liệu vệ tinh là một trong những ứng dụng cơ bản. Giám sát độ ẩm của đất giúp chúng ta quan trắc được hạn hán xảy ra tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Nghiên cứu này sử dụng các kết quả đo, tính toán độ ẩm của đất trong phòng thí nghiệm và phân tích ảnh vệ tinh Landsat 8 OLI thu được trong tháng 3 năm 2015 để xây dựng phương trình tính toán độ ẩm của đất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Kết quả phân tích cho thấy độ ẩm của đất có quan hệ chặt chẽ với tỷ số kênh 5 trên kênh 7 của ảnh Landsat 8 bằng phương trình hàm số logarit (r2=0.73, SE = 0.07). Độ ẩm của đất nhỏ hơn 90% có độ tương quan cao với khu vực chịu ảnh hưởng của hạn hán và điều kiện khí hậu tại khu vực Bắc Tây Nguyên.

Liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - nhìn từ vai trò của cơ quan chính quyền địa phương

19-10-2018

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã chỉ rõ quan điểm: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng”. Giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề chung của Chính phủ, của từng địa phương, mà các địa phương cần phải bắt tay, hợp nhất cùng giải quyết vấn đề chung mà xã hội đang phải đối mặt. Bài viết này nhằm phân tích vai trò và đưa ra một số đề xuất khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tham gia liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu giám sát độ trong của nước biển vịnh Hạ Long sử dụng ảnh vệ tinh Landsat 8

24-10-2018

Nghiên cứu này nhằm trình bày phương pháp tính toán độ trong của nước vịnh Hạ Long sử dụng dữ liệu thu được từ ảnh Landsat 8. Trong đó, các phép phân tích tuyến tính giữa phổ phản xạ đo được thực tế trên bề mặt nước hoặc phổ phản xạ của ảnh Landsat 8 và độ trong của nước vịnh đo cùng thời kỳ đều cho giá trị tương quan cao giữa giá trị độ sâu thấu quang đo bằng đĩa Secchi (thông số hiển thị độ trong của nước) của nước vịnh với phổ phản xạ của dải sóng đỏ ứng với phổ phản xạ thu được ở kênh 4 ảnh Landsat 8. Dựa vào mối quan hệ này, độ trong nước vịnh Hạ Long có thể tính toán sử dụng hàm số mũ của phổ phản xạ của kênh 4 của ảnh. Kết quả tính toán thử nghiệm thu được ở các ảnh vào các thời điểm khác nhau đều cho giá trị có độ chính xác cao so với thông số đo đạc thực tế được tiến hành bởi Ban Quản lý vịnh Hạ Long. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ảnh vệ tinh Landsat trong giám sát các thông số chất lượng môi trường nước vịnh Hạ Long, đặc biệt là độ trong của nước vịnh cho hiệu quả cao cả về chất lượng và kinh tế trong giám sát quản lý môi trường vịnh.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ nhằm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”

27-10-2018

Nghị quyết 24-NQ/TW sau khi ban hành đã được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương; các chủ trương, chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa; vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) trong việc triển khai Nghị quyết đã được khẳng định; nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý tài nguyên (QLTN) và bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định xét trong bối cảnh mới đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì lý do đó, sau 5 năm triển khai Nghị quyết cần có sự đánh giá đầy đủ và toàn diện vai trò của KHCN trong việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn, nhất là xét trong bối cảnh mới của cách mạng 4.0 và những biến đổi trên thế giới, những ứng dụng của KHCN cho phát triển kinh tế-xã hội.

Nâng cao hiệu quả chính sách khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nhìn từ cộng đồng kinh tế ASEAN

2-11-2018

Tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, ASEAN luôn tăng cường, đề cao vai trò hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản. AEC ra đời sẽ hứa hẹn tương lai ngành khai khoáng ở khu vực ngày càng trở nên bùng nổ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ sản xuất hàng hóa... Điều này sẽ tác động đến hoạt động khoáng sản của Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam cần phải thích ứng, nâng cao hiệu quả các chính sách khoáng sản.

Đề xuất Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường

8-11-2018

Ngành tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường thông qua các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một loại chính sách công. Để có cơ sở cho việc xây dựng Khung chương trình phân tích chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm phục vụ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chúng tôi đã nghiên cứu, so sánh các chương trình phân tích chính sách công của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. 

Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

13-11-2018

Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.

Chiến lược tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - Yêu cầu bức thiết của công tác quản lý nhà nước

14-11-2018

Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường là những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ 21. Nhiều Điều ước quốc tế đã được Việt Nam cam kết thực hiện nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, môi trường. Trong đó, phần lớn các văn bản đều có đề cập đến công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động thực tiễn trong vấn đề này.

Tiếp cận quá trình trong phân tích chính sách tài nguyên và môi trường

14-11-2018

Trên thế giới, khoa học nghiên cứu về chính sách công và phân tích chính sách với tư cách là một lĩnh vực khoa học xã hội, dựa trên những nguyên tắc kinh tế học, xã hội học, luật học và những chuyên ngành hàn lâm đã được hình thành từ lâu. Việc nghiên cứu các phương pháp phân tích chính sách và áp dụng trong ngành tài nguyên và môi trường có ý nghĩa rất quan trọng, tuy nhiên câu hỏi tiếp cận và sử dụng các công cụ/phương pháp phân tích chính sách trong quá trình phân tích chính sách ngành tài nguyên và môi trường như thế nào chưa được làm rõ trên cơ sở tiếp cận hoạch định chính sách như một quá trình. Việc xác định các phương pháp phân tích hay công cụ phù hợp có thể sử dụng hiệu quả cho từng khâu trong quá trình hoạch định chính sách cần được xem xét như một hướng tiếp cận mới. Bài viết xem xét các phương pháp phân tích chính sách định lượng và định tính và đánh giá sự phù hợp trong công tác hoạch định chính sách ngành tài nguyên và môi trường.Cách tiếp cận theo quá trình giúp khả năng ứng dụng của các phân tích chính sách được rõ ràng và sử dụng hiệu quả, phù hợp cho từng giai đoạn.

Ứng dụng cách tiếp cận foresight trong xây dựng chính sách quản lý tài nguyên và môi trường của Việt Nam

7-12-2018

Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề môi trường và tài nguyên nghiêm trọng đến mức ảnh hưởng trực tiếp tới cộng đồng. Vì vậy, trước bối cảnh như hiện nay, công tác quản lý cần phải có những định hướng trước mắt cũng như dài hạn trong xây dựng chiến lược, chính sách, muốn vậy cần phải làm tốt công tác dự báo. Khác với cách tiếp cận khép kín của dự báo truyền thống, cách tiếp cận dự báo dài hạn (foresight) được xem như là cách thức giao tiếp, trao đổi và thỏa thuận giữa các thành phần khác nhau trong xã hội, từ đó phát hiện ra những giá trị khoa học, kinh tế, văn hóa và xã hội có đóng góp lớn cho xã hội chung trong tương lai, đồng thời tích hợp được trong quá trình dự báo các vấn đề cần thảo luận, đánh giá, phân tích, đề xuất chính sách thành một quá trình tổng hợp, liên ngành. Hiện nay, công tác dự báo chính sách của Việt Nam chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Do vậy, đây có thể được coi là cách tiếp cận mới hỗ trợ công tác dự báo trong xây dựng chiến lược ngành tài nguyên và môi trường.

Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp

3-9-2019

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, phát sinh chất thải rắn (CTR) ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng, trở thành vấn đề môi trường bức xúc. Gần đây, Chính phủ đã yêu cầu giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) làm cơ quan đầu mối thống nhất quản lý về chất thải rắn. Bài báo này giới thiệu tổng quan về công tác quản lý chất thải rắn ở nước ta và đề xuất một số định hướng giải pháp trong thời gian tới.