ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển

Ngày đăng: 09 | 03 | 2017

Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) đã thông qua Tuyên bố chung “Tương lai chúng ta mong muốn” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển do vấn đề chất thải nhựa trên biển gây ra. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 25/9/2015. Chương trình nghị sự đưa ra một kế hoạch hành động gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và 169 chỉ tiêu cụ thể. Mục tiêu 11, 12 và 14 đặc biệt quan hệ mật thiết tới vấn đề rác thải nhựa trên biển, dù cả 17 mục tiêu đều ít nhiều liên quan.

Đây là vấn đề mới nổi, hiện đang rất được quan tâm trên thế giới. Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng phát sinh chất thải trên biển trong đó có chất thải nhựa cũng như đánh giá tác động của chất thải tới hệ sinh thái trên biển. Trong ngày làm sạch bờ biển quốc tế (The International Coastal Cleanup) 21/9/2012 đã ghi nhận hơn 60% lượng chất thải là nhựa trên tổng số 4.600 tấn thải đã thu gom được. Chất thải nhựa thường bao gồm các đồ bọc, chứa thực phẩm, mũ, nắp đậy, chai, túi nhựa, vật dụng dùng một lần (như thìa, dĩa, dao,…). Chất thải nhựa do khối lượng rất nhẹ nên chúng bị phân tán trên toàn cầu từ châu lục này đến châu lục khác nhờ sóng biển, tồn tại dai dẳng trong môi trường và hầu như không chịu bất cứ thay đổi sinh học nào do tính chất khó phân hủy. Chất thải nhựa có xu hướng trở nên có kích thước nhỏ hơn thông qua quá trình vật lý, điều này khiến cho nhựa có kích thước dưới 5 milimet dễ dàng đi vào chuỗi thức ăn dưới nước. Ngoài ra nhiều loài động vật biển như rùa, chim biển lại nhầm tưởng chúng là cỏ biển. Điều này dẫn đến hệ thống tiêu hóa của các con vật này bị gián đoạn (disrupt) hoặc ngăn chặn (block), do đó làm thiếu chất dinh dưỡng cũng như bị nhiễm độc dẫn đến cái chết của các con vật này.

Việc xác định các nguồn phát sinh cũng như khối lượng chất thải nhựa trong môi trường biển và ven biển sẽ giúp cho việc quản lý chất thải, ngăn ngừa nguy hại tới đời sống thủy sinh. Việc giảm lượng chất thải nhựa đi vào hệ sinh thái biển và ven biển có thể được coi như một chỉ thị hỗ trợ của công tác quản lý chất thải bởi vì rủi ro về việc phá hủy đa dạng sinh học khu vực biển và ven biển có thể được giảm bớt. Chỉ thị này cũng được sử dụng để giám sát các mục tiêu liên quan chất thải trong đó có chất thải trên biển của Tuyên bố Hà Nội về 3R được thông qua tại Diễn đàn 3R khu vực Châu Á Thái Bình Dương năm 2013 (Việt Nam là một trong những thành viên tham gia đầy đủ các hội nghị của Diễn đàn 3R này).

Ở nước ta, tài nguyên và môi trường biển có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng vững chắc, là nguồn lực đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Việc quản lý, bảo vệ môi trường biển ở nước ta đã được đề cập trong nhiều văn bản như Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo, Luật Bảo vệ Môi trường 2014 và nhiều văn bản định hướng, văn bản hướng dẫn Luật khác. Tuy nhiên, công tác quản lý chất thải đặc biệt là chất thải nhựa trên biển còn chưa thực sự được quan tâm, chưa có những quy định cụ thể về quản lý chất thải nhựa biển. Đồng thời cũng chưa có nhiều nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm trong việc đánh giá thực trạng phát sinh, kiểm soát, quản lý chất thải nhựa trên biển,...

Chính vì vậy, việc thực hiện Nhiệm vụ Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển” là thực sự cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao. Nhiệm vụ do Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường thực hiện trong năm 2016.

1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của Nhiệm vụ nhằm nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển, trên cơ sở đó đề xuất được một số giải pháp chung về kiểm soát chất thải nhựa trên biển ở Việt Nam.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của nhiệm vụ là về kiểm soát chất thải nhựa biển thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của một số nước và tổ chức trên thế giới.

Để đạt được mục tiêu đề ra, Nhiệm vụ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp kế thừa: Nhiệm vụ kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có thông qua các tài liệu trong và ngoài nước về kiểm soát chất thải nhựa biển.

- Phương pháp tư vấn chuyên gia: Nhiệm vụ thực hiện tham vấn chuyên gia trong việc hoàn thiện Thuyết minh và Báo cáo tổng kết.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên những tài liệu trong và ngoài nước với việc sử dụng khung phân tích DPSIR (Động lực - Áp lực - Hiện trạng - Tác động - Đáp ứng), Nhiệm vụ tổng hợp, phân tích nguồn gốc, hiện trạng phát sinh chất thải nhựa biển, các tác động tiêu cực của chất thải nhựa biển cũng như kinh nghiệm kiểm soát chất thải nhựa biển trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm về kiểm soát chất thải nhựa biển cho Việt Nam.

3. Kết quả nghiên cứu

Kết quả đạt được của nghiên cứu gồm ba nội dung chính:

Thứ nhất, tổng quan về chất thải nhựa trên biển. Trong nội dung này, nhóm tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về chất thải nhựa trên biển cũng như làm rõ nguồn gốc, nguyên nhân sâu xa phát sinh chất thải nhựa, hiện trạng chất thải nhựa biển và tác động của chất thải nhựa đến các lĩnh vực kinh tế-xã hội-môi trường thông qua sử dụng khung phân tích DPSIR (Động lực - Áp lực - Hiện trạng - Tác động - Đáp ứng). Có thể nói, nhựa chiếm đa số chất thải trên biển và là mối nguy lớn cho môi trường biển bởi số lượng lớn, đặc tính khó phân hủy trong môi trường biển và khả năng di chuyển xa. Nhựa chiếm khoảng 50-80% lượng rác thải biển và được dự đoán là sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai gần. Ước tính hơn 80% chất thải nhựa trên biển hàng năm có nguồn gốc từ đất liền, phần còn lại là nhựa được xả trực tiếp trên biển. Việc theo dõi lượng rác thải nhựa có trong môi trường cùng với tốc độ rác thải nhựa đi vào môi trường sẽ giúp đánh giá thực trạng và hiệu quả của công tác kiểm soát chất thải nhựa. Khảo sát rác thải biển thường bao gồm ba loại là khảo sát rác thải trên bãi biển; khảo sát rác thải nổi và khảo sát rác thải đáy. Một số quốc gia và tổ chức quốc tế đã đưa ra quy trình chuẩn để khảo sát bãi biển như Chương trình rác thải biển của Cơ quan Đại dương và Khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), Công ước Bảo vệ môi trường biển vùng Đông Bắc Đại Tây Dương (OSPAR).

Thứ hai, Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển. Trong phần này, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu khung pháp lý quốc tế về quản lý rác thải nhựa biển bao gồm: (i) Các hiệp ước môi trường đa phương như Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (Công ước MARPOL), Công ước London và Nghị định thư London,…; (ii) Các tuyên bố, hướng dẫn quốc tế như các mục tiêu phát triển bền vững Liên Hợp Quốc, Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO),…; (iii) Các nguyên tắc pháp lý quốc tế và thông lệ quốc tế như nguyên tắc phòng ngừa thiệt hại môi trường, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền,…. Để kiểm soát vấn đề chất thải nhựa, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng nhiều giải pháp như phòng ngừa, giảm thiểu phát sinh chất thải nhựa từ các hoạt động sản xuất và tiêu thụ của con người, xử lý chất thải nhựa, các sáng kiến, chiến dịch làm sạch biển, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức,.... Các biện pháp phòng ngừa, cắt giảm lượng rác có thể tóm gọn thành công cụ kinh tế thị trường (MBI), kỹ thuật/công nghệ sẵn có tốt nhất (BATs) và luật lệ do chính quyền đặt ra. Để xử lý chất thải nhựa, các nước thường sử dụng các phương pháp chôn lấp, đốt rác và tái chế, thu hồi chất thải. Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức, hành vi đối với chất thải nhựa biển có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng ngừa, giảm thiểu sự phát sinh chất thải nhựa từ hoạt động sản xuất và tiêu dùng, tăng cường các hoạt động tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa. Do đó, để thay đổi ý thức, thái độ và hành vi của đám đông, đã có rất nhiều các chương trình giáo dục và chiến dịch về chất thải trên biển được thực hiện. Một số chiến dịch được thực hiện nhân Ngày làm cho thế giới sạch hơn (Clean Up the World Day), làm cho bờ biển sạch hơn (International Coastal Cleanup - ICC), Ngày môi trường thế giới (World Environment Day),… Nhiều biện pháp kỹ thuật cũng đã được sử dụng để kiểm soát chất thải nhựa biển như kỹ thuật đánh dấu thiết bị đánh bắt thủy sản nhằm cắt giảm lượng dụng cụ đánh bắt bị thất lạc, thải bỏ; kỹ thuật thu gom và loại bỏ rác ở sông và cảng (như các rào chắn nổi, máy gắp cải tiến và các thiết bị khác để loại bỏ các vật liệu khác nhau ra khỏi đáy biển hay bề mặt biển bao gồm dụng cụ đánh bắt bị thất lạc, thải bỏ); phát triển vật liệu sản xuất dụng cụ đánh cá có thể bị phân hủy do vi sinh vật trong nước biển,… Từ nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu đã rút ra các bài học nhằm kiểm soát hiệu quả chất thải nhựa biển ở Việt Nam.

Thứ ba, Tổng quan về kiểm soát chất thải nhựa trên biển ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp phù hợp. Trong phần này, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu khung chính sách pháp luật, tổ chức bộ máy về quản lý chất thải nhựa trên biển, tổng hợp, đánh giá sơ bộ thực trạng công tác kiểm soát chất thải nhựa biển dựa trên kết quả các nhiệm vụ, dự án đã triển khai. Kết hợp với kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp chung về kiểm soát chất thải nhựa biển phù hợp với tình hình Việt Nam. Đó là các giải pháp về: (i) Hoàn thiện chính sách pháp luật, tổ chức bộ máy về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển; (ii) Đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý chất thải nhựa biển; (iii) Tăng cường nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ phục vụ quản lý, kiểm soát hiệu quả chất thải nhựa biển; (iv) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quản lý, kiểm soát chất thải nhựa biển; (v) Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về chất thải nhựa biển.

 

Ths. Dương Thị Phương Anh và nhóm nghiên cứu
Ban Môi trường và Phát triển bền vững,
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

NỘI DUNG KHÁC

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động tài nguyên và môi trường để đưa ra các phương án đề xuất, đề tài nghiên cứu mức độ cao hơn, phù hợp thực tiễn của Việt Nam

19-4-2017

Do mối quan hệ tương tác phức tạp của các yếu tố (kinh tế, xã hội và tài nguyên, môi trường) chưa được xem xét, đánh giá một cách khoa học và toàn diện nên việc xây dựng chính sách, chiến lược khả thi chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Mô hình hóa được coi là một công cụ hiệu quả, có thể giúp kiểm tra, đánh giá những tác động về kinh tế, sinh thái và môi trường của các chính sách khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, từ đó, xây dựng các phương án, đề xuất, định hướng thích hợp. Việc nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động, xu thế tài nguyên và môi trường không chỉ có ý nghĩa khoa học về phát triển công cụ dự báo mới trong trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường ở Việt Nam mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong phục vụ, hoạch định các chính sách, chiến lược hiệu quả lâu dài.

Monitoring influence of urbanization on urban thermal environment using multi-temporal LANDSAT imagery: application to Da Nang city

25-4-2017

This study illustrates urbanization in Da Nang city and its impacts on local thermal environments using remote sensing. In this study, multi-generation Landsat images from 1990, 1995, 2000, 2005, 2010 and 2014, were used to assess the city’s urban expansion and accompanied land surface temperature (LST) characteristics. Results showed that Da Nang urban expanded twice in 2014 (8,634 ha) comparing to 1990 (4,485 ha) and high temperature anomalies were closely associated with built-up and bare-soil land-covers. As consequence, areas covered by the highest LST correspondently expanded from centres of Thanh Khe, Hai Chau districts to mostly all 6 present downtown districts. The mean LST difference between the urban downtown area and the suburban area tends to increase over time, from 7.3 oC in 1990 to 11.9 oC in 2014. In the context of moving towards “a friendly environmental Da Nang city”, this  study  provides  useful  information  for  understanding  the  local  climatic  and  environment  changes  that  occurred  during  rapid urbanization.

Tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

5-10-2018

Vấn đề tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra đã được hình thành và phát triển qua các hội nghị các bên (COP) của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đó, tổn thất và thiệt hại (TT&TH) lần đầu tiên được đề cập trong Kế hoạch hành động Bali ở COP 13 năm 2007, đến COP 16 (năm 2010), Hội nghị đã đưa “tổn thất và thiệt hại” thành một chương trình làm việc (work program) trong Khung khổ các hoạt động thích ứng Cancun (Cancun Adaptation Framework). Ở COP 19 năm 2013, Hội nghị đã thiết lập Cơ chế Vac-sa-va về tổn thất và thiệt hại (Warsaw International Mechanism for Loss and Damage) đồng thời đã thành lập Ủy ban về TT&TH. Gần đây nhất, Thỏa thuận lịch sử về BĐKH ở Pari, COP 21 năm 2015, cũng đã đề cập và yêu cầu “các bên tham gia (UNFCCC) phải tăng cường hiểu biết, hành động, hỗ trợ, bao gồm cả thông qua Cơ chế Vac-sa-va, trên cơ sở hợp tác, về các tổn thất và thiệt hại từ các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra” (UNFCCC, 2015).

Bàn về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và định hướng phát triển năng lượng tái tạo

5-10-2018

  Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.

Nghiên cứu tính toán độ ẩm của đất khu vực Bắc Tây Nguyên sử dụng ảnh Landsat 8

11-10-2018

Tính toán độ ẩm của đất sử dụng dữ liệu vệ tinh là một trong những ứng dụng cơ bản. Giám sát độ ẩm của đất giúp chúng ta quan trắc được hạn hán xảy ra tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Nghiên cứu này sử dụng các kết quả đo, tính toán độ ẩm của đất trong phòng thí nghiệm và phân tích ảnh vệ tinh Landsat 8 OLI thu được trong tháng 3 năm 2015 để xây dựng phương trình tính toán độ ẩm của đất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Kết quả phân tích cho thấy độ ẩm của đất có quan hệ chặt chẽ với tỷ số kênh 5 trên kênh 7 của ảnh Landsat 8 bằng phương trình hàm số logarit (r2=0.73, SE = 0.07). Độ ẩm của đất nhỏ hơn 90% có độ tương quan cao với khu vực chịu ảnh hưởng của hạn hán và điều kiện khí hậu tại khu vực Bắc Tây Nguyên.

Liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - nhìn từ vai trò của cơ quan chính quyền địa phương

19-10-2018

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã chỉ rõ quan điểm: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng”. Giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề chung của Chính phủ, của từng địa phương, mà các địa phương cần phải bắt tay, hợp nhất cùng giải quyết vấn đề chung mà xã hội đang phải đối mặt. Bài viết này nhằm phân tích vai trò và đưa ra một số đề xuất khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tham gia liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu giám sát độ trong của nước biển vịnh Hạ Long sử dụng ảnh vệ tinh Landsat 8

24-10-2018

Nghiên cứu này nhằm trình bày phương pháp tính toán độ trong của nước vịnh Hạ Long sử dụng dữ liệu thu được từ ảnh Landsat 8. Trong đó, các phép phân tích tuyến tính giữa phổ phản xạ đo được thực tế trên bề mặt nước hoặc phổ phản xạ của ảnh Landsat 8 và độ trong của nước vịnh đo cùng thời kỳ đều cho giá trị tương quan cao giữa giá trị độ sâu thấu quang đo bằng đĩa Secchi (thông số hiển thị độ trong của nước) của nước vịnh với phổ phản xạ của dải sóng đỏ ứng với phổ phản xạ thu được ở kênh 4 ảnh Landsat 8. Dựa vào mối quan hệ này, độ trong nước vịnh Hạ Long có thể tính toán sử dụng hàm số mũ của phổ phản xạ của kênh 4 của ảnh. Kết quả tính toán thử nghiệm thu được ở các ảnh vào các thời điểm khác nhau đều cho giá trị có độ chính xác cao so với thông số đo đạc thực tế được tiến hành bởi Ban Quản lý vịnh Hạ Long. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ảnh vệ tinh Landsat trong giám sát các thông số chất lượng môi trường nước vịnh Hạ Long, đặc biệt là độ trong của nước vịnh cho hiệu quả cao cả về chất lượng và kinh tế trong giám sát quản lý môi trường vịnh.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ nhằm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”

27-10-2018

Nghị quyết 24-NQ/TW sau khi ban hành đã được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương; các chủ trương, chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa; vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) trong việc triển khai Nghị quyết đã được khẳng định; nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý tài nguyên (QLTN) và bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định xét trong bối cảnh mới đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì lý do đó, sau 5 năm triển khai Nghị quyết cần có sự đánh giá đầy đủ và toàn diện vai trò của KHCN trong việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn, nhất là xét trong bối cảnh mới của cách mạng 4.0 và những biến đổi trên thế giới, những ứng dụng của KHCN cho phát triển kinh tế-xã hội.

Nâng cao hiệu quả chính sách khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nhìn từ cộng đồng kinh tế ASEAN

2-11-2018

Tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, ASEAN luôn tăng cường, đề cao vai trò hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản. AEC ra đời sẽ hứa hẹn tương lai ngành khai khoáng ở khu vực ngày càng trở nên bùng nổ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ sản xuất hàng hóa... Điều này sẽ tác động đến hoạt động khoáng sản của Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam cần phải thích ứng, nâng cao hiệu quả các chính sách khoáng sản.

Đề xuất Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường

8-11-2018

Ngành tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường thông qua các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một loại chính sách công. Để có cơ sở cho việc xây dựng Khung chương trình phân tích chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm phục vụ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chúng tôi đã nghiên cứu, so sánh các chương trình phân tích chính sách công của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. 

Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

13-11-2018

Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.

Chiến lược tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - Yêu cầu bức thiết của công tác quản lý nhà nước

14-11-2018

Biến đổi khí hậu cùng với suy thoái tài nguyên, ô nhiễm môi trường là những thách thức lớn của nhân loại trong thế kỷ 21. Nhiều Điều ước quốc tế đã được Việt Nam cam kết thực hiện nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, môi trường. Trong đó, phần lớn các văn bản đều có đề cập đến công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động thực tiễn trong vấn đề này.