ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất khung bộ chỉ số giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA) trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Ngày đăng: 25 | 02 | 2017

Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,… ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến con người và hệ sinh thái. Nhiều giải pháp thích ứng được tính đến và thực hiện, trong đó giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái là giải pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động ứng phó với BĐKH nhằm đạt được đồng lợi ích về bảo tồn ĐDSH và giảm nghèo. Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái cũng chỉ ra mối quan hệ không thể tách rời giữa con người và hệ sinh thái. EBA đặc biệt liên quan đến việc quản lý, bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái để cung cấp cho con người khả năng phục hồi đối với các tác động của BĐKH. Mục tiêu hướng tới của giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái là quản lý bền vững, bảo tồn và khôi phục các hệ sinh thái nhằm để cung cấp các dịch vụ sinh thái giúp người dân thích ứng với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, giảm khả năng dễ bị tổn thương và nâng cao khả năng phục hồi trước những rủi ro, tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra.

Đối tượng dễ bị tổn thương do BĐKH phần lớn là những người nghèo với sinh kế bấp bênh, nên khi thực hiện các giải pháp thích ứng cần đảm bảo có tính thành công cao và bền vững, bởi vậy khi tiến hành các biện pháp thích ứng cần có sự đánh giá kỹ lưỡng để tránh rủi ro và mang lại hiệu quả cao nhất. Do đó việc xây dựng bộ chỉ số đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái rất quan trọng trong quá trình triển khai. Trong nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc xây dựng cơ sở khoa học về xây dựng bộ chỉ số EbA và rà soát các bộ tiêu chí, bộ chỉ số giám giát và đánh giá EbA trên thế giới, đánh giá mức độ phù hợp với điều kiện của Việt Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị xây dựng bộ chỉ số giám sát và đánh giá EbA cho Việt Nam.

1. Mục tiêu:

+ Cung cấp cơ sở lý luận và bài học kinh nghiệm quốc tế về bộ chỉ số giám sát và đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái

+ Đánh giá khả năng áp dụng và khuyến nghị xây dựng bộ chỉ số đánh giá, giám sát thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái phù hợp với điều kiện Việt Nam.

2. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của Đề tài được xác định là kinh nghiệm thế giới và thực trạng Việt Nam về bộ chỉ số giám sát và đánh giá EbA

-  Phạm vi nghiên cứu của đề tài này giới hạn ở việc tập trung vào thu thập các kinh nghiệm quốc tế, tổng hợp cơ sở khoa học và rà soát, đánh giá thực trạng ở Việt Nam về xây dựng bộ chỉ số giám sát và đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái.

- Phương pháp nghiên cứu:

Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu bao gồm:  Phương pháp kế thừa. Thông qua việc kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước (các dự án thích ứng dựa vào hệ sinh thái và các đánh giá liên quan, kinh nghiệm quốc tế về xây dựng các chỉ số giám sát, đánh giá), trên cơ sở đó sẽ lựa chọn các chỉ số và xây dựng được khung bộ chỉ số giám, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái phù hợp với điều kiện Việt Nam; Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích: Thiết lập các dữ liệu, cơ sở khoa học cho các nhận định, kết luận, đề xuất các tiêu chí đánh giá phù hợp; Phương pháp tham vấn chuyên gia (phối hợp, phản biện, thẩm định…): Đối tượng nghiên cứu của nhiệm vụ là các hoạt động thích ứng với BĐKH dựa vào hệ sinh thái, có liên quan tới nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau do đó cần có sự tham vấn chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực.

3. Kết quả nghiên cứu

I. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Trên cơ sở tổng quan tài liêu quốc tế, một số nội dung có thể áp dụng cho Việt Nam được rút ra như sau:

a. Nguyên tắc xây dựng bộ chỉ số

- Trực tiếp: Chỉ số trực tiếp phản ánh mức độ rõ ràng của kết quả. Chỉ số giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái phải đảm bảo được tính trực tiếp.

- Đúng mục tiêu: Một chỉ số khách quan nếu nó xác định rõ ràng các điểm sau: 1) nó đánh giá vấn đề gì và 2) dữ liệu nào được thu thập để đánh giá. –

- Hữu ích cho nhà quản lý: Một chỉ số hữu ích là chỉ số cung cấp được đánh giá về những thay đổi theo thời gian phục vụ các nhà quản lý đưa ra các quyết sách cho từng giai đoạn. Các nhà quản lý lựa chọn chỉ số nhằm đánh giá kết quả đạt được một cách cụ thể. Do đó, việc lựa chọn các chỉ số đánh giá cần cân nhắc những hiệu quả đánh giá mà chỉ số mang lại.

- Có thể kết hợp: Một chỉ số có tính kết hợp nếu nó đánh giá khả năng kết hợp với các thể chế sẵn có. Chỉ số đánh giá hiệu quả thích ứng dựa vào hệ sinh thái cần đánh giá được khả năng kết hợp với các dự án hoặc hoạt động đang thực hiện tại địa phương. Một dự án thích ứng dựa vào hệ sinh thái mới chuẩn bị được thực hiện trong khu vực không nên tác động tiêu cực hoặc ảnh hưởng tới hiệu quả của các dự án hoặc hoạt động khác.

- Tính thực tế: Một chỉ số thực tế là chỉ số mà dữ liệu có thể thu thập trong một khoảng thời gian nhất định và với một mức chi phí hợp lý.

- Tính đầy đủ: Một bộ chỉ số nên là một nhóm những chỉ số đủ để đánh giá toàn diện kết quả. Nói cách khác, số lượng chỉ số cần thiết phục vụ mục đích quản lý phải được tối giản giúp tiết kiệm chi phí. Số lượng chỉ số cần phải đủ để đánh giá kết quả dựa trên:

+Tính tổng hợp của kết quả được đánh giá

+ Khối lượng thông tin cần thiết để đưa ra kết luận hợp lý và đủ tin cậy

+ Phù hợp với nguồn lực sẵn có

- Có thể tách rời, khi cần thiết: Khả năng tách rời dữ liệu theo giới tính, độ tuổi, địa điểm, hoặc một số tiêu chí quan trọng khác hữu ích trong cả công tác quản lý và báo cáo. Quá trình phát triển dự án thường chịu tác động bởi số liệu thống kê dân số hoặc thể chế xã hội. Khả năng tách rời dữ liệu là cần thiết khi xây dựng chỉ số đánh giá hiệu quả thích ứng dựa vào hệ sinh thái.

b. Nội dung của bộ chỉ số

c. Phương pháp xây dựng bộ chỉ số

Phương pháp xây dựng gồm các bước như sau:

Bước 1. Xác định bối cảnh thích ứng, gồm:

- Thông tin khí hậu

- Đánh giá tính dễ bị tổn thương

- Khôi phục khí hậu để phát triển

Bước 2. Xác định mức độ ưu tiên của các hành động thích ứng

Dựa trên những phân tích về bối cảnh thích ứng ở Bước 1, có thể định hướng mức độ ưu tiên của các hành động thích ứng. Điều này đồng nghĩa với việc xác định những đóng góp của dự án cho công tác thích ứng. Việc xác định dựa trên các tiêu chí sau:

Tiêu chí 1: Tăng cường năng lực thích ứng:

Tiêu chí 2: Các biện pháp giảm thiểu các rủi ro/tính dễ bị tổn thương xác định (các hành động thích ứng)

Tiêu chí 3: Sự phát triển thành công bất chấp biến đổi khí hậu (phát triển bền vững):

Bước 3. Khung chính sách

Trên cơ sở bối cảnh thích ứng (đã xác định ở bước 1) và các tiêu chí thích ứng (xác định trong bước 2), bước 3 lường trước kết quả dự án và cách đạt được các kết quả đó (chiến lược)

Bước 4. Bộ chỉ số và tiêu chuẩn

Khi xác định được bối cảnh thích ứng (bước 1), tiêu chí thích ứng (bước 2) và khung kết quả (bước3) được xác định, bước 4 giúp xây dựng chỉ số và thiết lập tiêu chuẩn cơ bản phục vụ giám sát và đánh giá

- Xây dựng chỉ số: sử dụng công cụ MACC của Cơ quan hợp tác Phát triển Đức (GIZ)

- Thiết lập tiêu chuẩn: Một yếu tố quan trọng trong quy hoạch, giám sát và đánh giá là tiêu chuẩn, thời điểm trước khi bắt đầu tác động. Dữ liệu cần thiết để xác định tiêu chuẩn có thể thu thập từ chính quyền địa phương, các tổ chức quốc tế hoặc diễn đàn toàn cầu hoặc được tổng hợp theo vùng bởi các cá nhân/tổ chức thực hiện dự án.

- Xác định kết quả thích ứng: Trọng tâm là cung cấp uận chứng về đóng góp cho thích ứng với biến đổi khí hậu.

c. Cơ sở dữ liệu phục vụ giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái

Công tác giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái đòi hỏi phải có cơ sở dữ liệu tương ứng với năm loại: Khí hậu, kinh tế - xã hội, thể chế và chính sách, dịch vụ hệ sinh thái và chiến lược tính thế. Các thông tin này cung cấp căn cứ đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của địa phương cũng như sự tăng cường năng lực thích ứng dựa vào hệ sinh thái của cộng đồng.

II. Đề xuất Khung bộ chỉ số giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái phù hợp với điệu kiện Việt Nam

Thích ứng dựa vào hệ sinh thái là một trong những lựa chọn được ưu tiên do chi phí lợi ích của nó mang lại. Nội hàm của thích ứng dựa vào hệ sinh thái là sử dụng các biện pháp quản lý bền vững, bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ con người thích ứng với các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu (Chapin et al, 2009; CBD 2009; Piran et al 2009). Trên cơ sở đó, mục tiêu của bộ chỉ số đánh giá thính ứng dựa vào hệ sinh thái cần là:

- Đánh giá, so sánh mức độ thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái khi triển khai các mô hình. Từ đó, giúp nhà quản lý có những sự lựa chọn đúng đắn trong định hướng lựa chọn các mô hình thích ứng phù hợp nhất cho sự phát triển địa phương.

- Xác định được lợi ích của dự án đem lại đối với bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái, hỗ trợ sinh kế cho người dân

Trên cơ sở xác định nội hàm, mục tiêu và khung lý thuyết cho Bộ chỉ số, nhóm nghiên cứu đã đưa ra khuyến nghị về khung Bộ chỉ số giám sát, đánh giá như sau:

Kết luận

Thực tế ở Việt Nam đã có một số dự án thích ứng dựa vào hệ sinh thái đã được thực hiện ở các cộng đồng địa phương dưới hình thức các dự án do các NGOs tổ chức triển khai. Tuy nhiên, chỉ một số ít dự án đạt được tính bền vững và tiếp tục thành công, còn lại đa số đã gặp những vấn đề bất lợi và thất bại sau khi sau khi dự án kết thúc. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của các dự án này như không tạo được sinh kế bền vững cho người dân, không kiểm soát được sự quay vòng tài chính của mô hình, kiến thức và ý thức của người dân. Trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày càng mạnh mẽ, đa dạng sinh học suy giảm, nguồn tài chính cho EbA hạn chế và thiếu công cụ giám sát, đánh giá, việc xây dựng được khung bộ chỉ số có ý nghĩa quan trọng  làm tiền đề cho việc hoàn thiện Bộ chỉ số giám sát và đánh giá tính thành công của một dự án EbA nhằm hướng tới sự phát triển bền vững cho các cộng đồng địa phương trong bối cảnh cần thiết tăng cường năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu.

 

Lưu Lê Hường
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường


Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

1. GIZ, Tài liệu dự án Lồng ghép chiến lược thích ứng dựa vào hệ sinh thái tại Việt Nam; đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương dựa vào hệ sinh thái.

2. TS. Huỳnh Thị Lan Hương, Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài: Nghiên cứu phát triển bộ chỉ số thích ứng với biến đổi khí hậu phục vụ công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu, năm 2015.

3. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Báo cáo tổng hợp dự án Lượng giá dịch vụ hệ sinh thái.

Tiếng Anh

1. GIZ, Adaptation made to measure: A guidebook to the design and results-based monitoring of climate change adaptation projects, 2nd edition 2013.

2.GIZ, Handbook Monitoring climate change adaptation projects with the MACC-Tool, 2016.

3. USAID, Performance monitoring & evaluation  tips selecting performance indicators, 2nd edition 2010.

4. Marion Kandziora, Benjamin Burkhard, Felix Muller, Interactions of ecosystem  properties, ecosystem integrity and ecosystem serviceindicators - A   theoretical   matrix exercise, Ecological Indicators, 2013.

5. Martin Becher, Britta Heine, Dr. Truong Quang Hoc, Overview of existing capacity development approaches on mainstreaming adaptation to climate change with focus on EbA and best practices on EbA, 2015

NỘI DUNG KHÁC

Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển

9-3-2017

Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) đã thông qua Tuyên bố chung “Tương lai chúng ta mong muốn” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển do vấn đề chất thải nhựa trên biển gây ra. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 25/9/2015. Chương trình nghị sự đưa ra một kế hoạch hành động gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và 169 chỉ tiêu cụ thể. Mục tiêu 11, 12 và 14 đặc biệt quan hệ mật thiết tới vấn đề rác thải nhựa trên biển, dù cả 17 mục tiêu đều ít nhiều liên quan.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động tài nguyên và môi trường để đưa ra các phương án đề xuất, đề tài nghiên cứu mức độ cao hơn, phù hợp thực tiễn của Việt Nam

19-4-2017

Do mối quan hệ tương tác phức tạp của các yếu tố (kinh tế, xã hội và tài nguyên, môi trường) chưa được xem xét, đánh giá một cách khoa học và toàn diện nên việc xây dựng chính sách, chiến lược khả thi chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Mô hình hóa được coi là một công cụ hiệu quả, có thể giúp kiểm tra, đánh giá những tác động về kinh tế, sinh thái và môi trường của các chính sách khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, từ đó, xây dựng các phương án, đề xuất, định hướng thích hợp. Việc nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động, xu thế tài nguyên và môi trường không chỉ có ý nghĩa khoa học về phát triển công cụ dự báo mới trong trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường ở Việt Nam mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong phục vụ, hoạch định các chính sách, chiến lược hiệu quả lâu dài.

Monitoring influence of urbanization on urban thermal environment using multi-temporal LANDSAT imagery: application to Da Nang city

25-4-2017

This study illustrates urbanization in Da Nang city and its impacts on local thermal environments using remote sensing. In this study, multi-generation Landsat images from 1990, 1995, 2000, 2005, 2010 and 2014, were used to assess the city’s urban expansion and accompanied land surface temperature (LST) characteristics. Results showed that Da Nang urban expanded twice in 2014 (8,634 ha) comparing to 1990 (4,485 ha) and high temperature anomalies were closely associated with built-up and bare-soil land-covers. As consequence, areas covered by the highest LST correspondently expanded from centres of Thanh Khe, Hai Chau districts to mostly all 6 present downtown districts. The mean LST difference between the urban downtown area and the suburban area tends to increase over time, from 7.3 oC in 1990 to 11.9 oC in 2014. In the context of moving towards “a friendly environmental Da Nang city”, this  study  provides  useful  information  for  understanding  the  local  climatic  and  environment  changes  that  occurred  during  rapid urbanization.

Tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

5-10-2018

Vấn đề tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra đã được hình thành và phát triển qua các hội nghị các bên (COP) của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đó, tổn thất và thiệt hại (TT&TH) lần đầu tiên được đề cập trong Kế hoạch hành động Bali ở COP 13 năm 2007, đến COP 16 (năm 2010), Hội nghị đã đưa “tổn thất và thiệt hại” thành một chương trình làm việc (work program) trong Khung khổ các hoạt động thích ứng Cancun (Cancun Adaptation Framework). Ở COP 19 năm 2013, Hội nghị đã thiết lập Cơ chế Vac-sa-va về tổn thất và thiệt hại (Warsaw International Mechanism for Loss and Damage) đồng thời đã thành lập Ủy ban về TT&TH. Gần đây nhất, Thỏa thuận lịch sử về BĐKH ở Pari, COP 21 năm 2015, cũng đã đề cập và yêu cầu “các bên tham gia (UNFCCC) phải tăng cường hiểu biết, hành động, hỗ trợ, bao gồm cả thông qua Cơ chế Vac-sa-va, trên cơ sở hợp tác, về các tổn thất và thiệt hại từ các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra” (UNFCCC, 2015).

Bàn về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và định hướng phát triển năng lượng tái tạo

5-10-2018

  Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.

Nghiên cứu tính toán độ ẩm của đất khu vực Bắc Tây Nguyên sử dụng ảnh Landsat 8

11-10-2018

Tính toán độ ẩm của đất sử dụng dữ liệu vệ tinh là một trong những ứng dụng cơ bản. Giám sát độ ẩm của đất giúp chúng ta quan trắc được hạn hán xảy ra tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Nghiên cứu này sử dụng các kết quả đo, tính toán độ ẩm của đất trong phòng thí nghiệm và phân tích ảnh vệ tinh Landsat 8 OLI thu được trong tháng 3 năm 2015 để xây dựng phương trình tính toán độ ẩm của đất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Kết quả phân tích cho thấy độ ẩm của đất có quan hệ chặt chẽ với tỷ số kênh 5 trên kênh 7 của ảnh Landsat 8 bằng phương trình hàm số logarit (r2=0.73, SE = 0.07). Độ ẩm của đất nhỏ hơn 90% có độ tương quan cao với khu vực chịu ảnh hưởng của hạn hán và điều kiện khí hậu tại khu vực Bắc Tây Nguyên.

Liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - nhìn từ vai trò của cơ quan chính quyền địa phương

19-10-2018

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã chỉ rõ quan điểm: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng”. Giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề chung của Chính phủ, của từng địa phương, mà các địa phương cần phải bắt tay, hợp nhất cùng giải quyết vấn đề chung mà xã hội đang phải đối mặt. Bài viết này nhằm phân tích vai trò và đưa ra một số đề xuất khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tham gia liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu giám sát độ trong của nước biển vịnh Hạ Long sử dụng ảnh vệ tinh Landsat 8

24-10-2018

Nghiên cứu này nhằm trình bày phương pháp tính toán độ trong của nước vịnh Hạ Long sử dụng dữ liệu thu được từ ảnh Landsat 8. Trong đó, các phép phân tích tuyến tính giữa phổ phản xạ đo được thực tế trên bề mặt nước hoặc phổ phản xạ của ảnh Landsat 8 và độ trong của nước vịnh đo cùng thời kỳ đều cho giá trị tương quan cao giữa giá trị độ sâu thấu quang đo bằng đĩa Secchi (thông số hiển thị độ trong của nước) của nước vịnh với phổ phản xạ của dải sóng đỏ ứng với phổ phản xạ thu được ở kênh 4 ảnh Landsat 8. Dựa vào mối quan hệ này, độ trong nước vịnh Hạ Long có thể tính toán sử dụng hàm số mũ của phổ phản xạ của kênh 4 của ảnh. Kết quả tính toán thử nghiệm thu được ở các ảnh vào các thời điểm khác nhau đều cho giá trị có độ chính xác cao so với thông số đo đạc thực tế được tiến hành bởi Ban Quản lý vịnh Hạ Long. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ảnh vệ tinh Landsat trong giám sát các thông số chất lượng môi trường nước vịnh Hạ Long, đặc biệt là độ trong của nước vịnh cho hiệu quả cao cả về chất lượng và kinh tế trong giám sát quản lý môi trường vịnh.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ nhằm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”

27-10-2018

Nghị quyết 24-NQ/TW sau khi ban hành đã được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương; các chủ trương, chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa; vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) trong việc triển khai Nghị quyết đã được khẳng định; nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý tài nguyên (QLTN) và bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định xét trong bối cảnh mới đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì lý do đó, sau 5 năm triển khai Nghị quyết cần có sự đánh giá đầy đủ và toàn diện vai trò của KHCN trong việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn, nhất là xét trong bối cảnh mới của cách mạng 4.0 và những biến đổi trên thế giới, những ứng dụng của KHCN cho phát triển kinh tế-xã hội.

Nâng cao hiệu quả chính sách khai thác khoáng sản trong hội nhập kinh tế quốc tế: Nhìn từ cộng đồng kinh tế ASEAN

2-11-2018

Tài nguyên khoáng sản có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người. Trong tiến trình hội nhập kinh tế, ASEAN luôn tăng cường, đề cao vai trò hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản. AEC ra đời sẽ hứa hẹn tương lai ngành khai khoáng ở khu vực ngày càng trở nên bùng nổ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ sản xuất hàng hóa... Điều này sẽ tác động đến hoạt động khoáng sản của Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam cần phải thích ứng, nâng cao hiệu quả các chính sách khoáng sản.

Đề xuất Khung chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực phân tích chính sách quản lý tài nguyên và môi trường

8-11-2018

Ngành tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường thông qua các chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một loại chính sách công. Để có cơ sở cho việc xây dựng Khung chương trình phân tích chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm phục vụ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, chúng tôi đã nghiên cứu, so sánh các chương trình phân tích chính sách công của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. 

Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

13-11-2018

Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.