ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và định hướng bảo vệ môi trường Việt Nam giai đoạn 2016-2020

Ngày đăng: 22 | 12 | 2016

Để tiếp tục thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững (PTBV) cho giai đoạn sau 2015, tại Hội nghị về PTBV (Rio+20), được tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil vào 6/2012, LHQ đã xây dựng các mục tiêu PTBV (SDGs), dự kiến sẽ được thông qua ngày 25-27/9. Sau gần 2 năm thực hiện các đánh giá và tham vấn, tháng 7/2014, Nhóm công tác của LHQ đã đề xuất 17 Mục tiêu về PTBV (SDGs).

 

I. TỪ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THIÊN NIÊN KỶ (MDGS) ĐẾN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (SDGS) CỦA LIÊN HỢP QUỐC

Từ năm 2000, Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua Tuyên bố Thiên niên kỷ và kêu gọi các quốc gia trên thế giới thực hiện thành công 8 Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) đến năm 2015, bao gồm:

1) Triệt để loại trừ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu ăn

2) Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học

3) Nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ

4) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em

5) Cải thiện sức khỏe bà mẹ

6) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác

7) Đảm bảo sự bền vững của môi trường

8) Tăng cường quan hệ đối tác toàn cầu cho phát triển

Đến nay, năm 2015, ở cấp độ toàn cầu, một số mục tiêu đã hoàn thành, cụ thể như tình trạng đói nghèo cùng cực đã giảm một nửa; các nỗ lực chống lại bệnh sốt rét và bệnh lao đã mang lại kết quả; tiếp cận nguồn nước uống sạch hơn đã trở thành hiện thực với 2,3 tỷ người; bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong đăng tiểu học đang được loại bỏ, sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động chính trị tiếp tục tăng; hỗ trợ thương mại được phục hồi... (Prokop, 2015).

Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, ở cấp độ toàn cầu, nhiều chỉ tiêu trong các MDGs chưa được hoàn thành. Hiện nay, vẫn còn khoảng 1 tỷ người sống dưới mức 1,25 USD/ngày, 800 triệu người không đủ lương thực. Nhân loại vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác như suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, việc làm, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo...

Để tiếp tục thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững (PTBV) cho giai đoạn sau 2015, tại Hội nghị về PTBV (Rio+20), được tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil vào 6/2012, LHQ đã xây dựng các mục tiêu PTBV (SDGs), dự kiến sẽ được thông qua ngày 25-27/9. Sau gần 2 năm thực hiện các đánh giá và tham vấn, tháng 7/2014, Nhóm công tác của LHQ đã đề xuất 17 Mục tiêu về PTBV (SDGs), bao gồm:

1) Xóa bỏ đói nghèo dưới mọi hình thức ở mọi nơi.

2) Xóa đói, đạt được an ninh lương thực và cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy nông nghiệp bền vững.

3) Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và thúc đẩy hạnh phúc cho tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi.

4) Bảo đảm giáo dục có chất lượng toàn diện và công bằng, và thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.

5) Đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái.

6) Bảo đảm tính sẵn có, quản lý bền vững tài nguyên nước và vệ sinh cho tất cả mọi người.

7) Bảo đảm sự tiếp cận nguồn năng lượng có giá cả phải chăng, tin cậy, bền vững và hiện đại cho tất cả mọi người.

8) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục, tạo việc làm đầy đủ và năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người.

9) Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu, thúc đẩy công nghiệp hóa toàn diện và bền vững và tăng cường đổi mới.

10) Giảm bất bình đẳng trong và giữa các quốc gia.

11) Hình thành các thành phố và nơi định cư của con người toàn diện, an toàn, có khả năng chống chịu và bền vững.

12) Bảo đảm mô hình sản xuất tiêu dùng bền vững.

13) Hành động khẩn cấp để ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và tác động của nó.

14) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lực biển để PTBV.

15) Bảo vệ, phục hồi và thúc đẩy sử dụng bền vững các hệ sinh thái đất, quản lý rừng bền vững, chống lại tình trạng sa mạc hóa, ngăn chặn và phục hồi tình trạng suy thoái môi trường và ngăn chặn những tổn thất về đa dạng sinh học.

16) Thúc đẩy các xã hội hòa bình và toàn diện vì PTBV, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người và xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm, giải trình và toàn diện.

17) Tăng cường các phương thức triển khai và làm mới mối quan hệ đối tác toàn cầu vì PTBV (LHQ, 2014).

Dưới 17 SDGs nói trên là 169 chỉ tiêu cụ thể, trong đó có thời hạn thực hiện đến các năm 2020, 2025 và 2030. Nhìn chung, xoá đói giảm nghèo tiếp tục là mục tiêu bao trùm của SDGs bên cạnh các mục tiêu về giáo dục, bình đẳng giới, bảo vệ môi trường... Bên cạnh đó, SDGs được xây dựng dựa trên 6 lĩnh vực gồm Nhân phẩm, Con người, Thịnh vượng, Hành tinh của chúng ta, Công lý và Quan hệ đối tác, nhiều hơn 2 lĩnh vực so với MDGs là Công lý và Thịnh vượng. Quy mô tài chính để thực hiện MDGs được ước tính ở cấp tỷ USD, trong khi tài chính cho SDGs cần hàng nghìn tỷ USD, ví dụ tài chính cho giảm nghèo đói cần khoảng 66 tỷ USD/năm, cho xây dựng cơ sở hạ tầng cần khoảng 7 ngàn tỷ USD/năm…(Vũ Duy Tuấn, 2014).

II. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016-2020 TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI SDGS

a) Các mục tiêu môi trường trong SDGs

Có thể nói vấn đề môi trường và BĐKH tiếp tục là các ưu tiên trong SDGs, thể hiện qua sự có mặt trong 15/17 mục tiêu và 32/169 chỉ tiêu cụ thể trong đó rõ nhất là ở các SDGs 6, 12, 14, 15. Một số chỉ tiêu cụ thể về môi trường đến 2020, 2025 và 2030 được trích dẫn từ các SDGs như dưới đây (được sắp xếp theo thứ tự của các SDGs):

Mục tiêu đến năm 2020:

* Tăng [X] phần trăm số thành phố và khu định cư thực hiện các chính sách và kế hoạch tích hợp hướng đến sự toàn diện, hiệu quả tài nguyên, giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH, có khả năng chống chịu với thiên tai, xây dựng và thực hiện theo khung Hyogo sắp tới về quản lý rủi ro thiên tai tổng thể ở tất cả các cấp độ (Mục tiêu 11.b).

* Đạt được quản lý 1 cách thân thiện với môi trường các loại hóa chất và tất cả chất thải trong suốt vòng đời của chúng phù hợp với những khuôn khổ quốc tế đã được chấp thuận và giảm phát thải các chất này vào không khí, nước và đất, nhằm giảm thiểu tác hại của chúng đối với sức khỏe con người và môi trường (12.4).

* Quản lý và bảo vệ một cách bền vững các hệ sinh thái biển và ven biển để tránh những tác động tiêu cực lớn, bao gồm việc tăng cường khả năng chống chịu của các hệ sinh thái này và tiến hành các biện pháp phục hồi các hệ sinh thái này để có được các đại dương trong lành và năng suất (14.2).

* Quản lý một cách hiệu quả hoạt động khai thác, chấm dứt việc khai thác cá quá mức, các hoạt động khai thác cá bất hợp pháp, không được báo cáo hoặc không theo quy định và những hoạt động khai thác cá mang tính hủy diệt; thực hiện các kế hoạch quản lý khoa học để phục hồi trữ lượng cá trong thời gian ngắn nhất có thể, tối thiểu là ở mức có thể đạt được sản lượng bền vững tối đa theo những đặc điểm sinh học của chúng (14.4).

* Bảo tồn ít nhất 10% các khu vực biển và ven biển phù hợp với luật pháp quốc gia và quốc tế căn cứ trên những thông tin khoa học tốt nhất hiện có (14.5).

* Bảo đảm sự bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững các hệ sinh thái nước ngọt trên trái đất và trong lục địa và các dịch vụ của chúng, đặc biệt là rừng, đất ngập nước, núi, khu vực đất khô phù hợp với các nghĩa vụ theo các thỏa thuận quốc tế (15.1).

* Thúc đẩy việc thực hiện quản lý bền vững tất cả các loại rừng, chấm dứt việc chặt phá rừng, phục hồi rừng bị suy thoái, tăng cường việc trồng rừng và gia tăng [X] phầm trăm độ bao phủ của rừng trên toàn cầu (15.2).

* Chống lại việc sa mạc hóa, phục hồi những vùng đất bị suy thoái, trong đó có đất bị ảnh hưởng bởi tình trạng sa mạc hóa, hạn hán và lũ lụt và cố gắng để thế giới không xảy ra tình trạng suy thoái đất (15.3).

* Bảo đảm việc bảo tồn các hệ sinh thái núi, bao gồm cả sự đa dạng sinh học của những hệ sinh thái này để tăng cường khả năng cung cấp nguồn lợi vốn rất quan trọng với phát triển bền vững từ những hệ sinh thái này (15.4).

* Thực hiện những hành động cấp thiết và có ý nghĩa để giảm tình trạng suy thoái nơi cư trú tự nhiên, chấm dứt tình trạng mất sự đa dạng sinh học, và đến năm 2020 bảo vệ và ngăn chặn không để xảy ra sự tuyệt chủng của các loài hiện đang bị đe dọa (15.5).

* Đưa ra những biện pháp ngăn chặn và giảm đáng kể tác động của những loài xâm thực lạ đối với các hệ sinh thái trên đất và nước và kiểm soát hoặc loại trừ những loài ưu tiên (15.8).

* Lồng ghép các hệ sinh thái và các giá trị đa dạng sinh học vào việc lập kế hoạch, các quá trình phát triển và chiến lược giảm nghèo của quốc gia và địa phương (15.9).

Mục tiêu đến năm 2025:

* Phòng ngừa và giảm đáng kể mọi loại hình ô nhiễm biển, đặc biệt là từ các hoạt động trên đất liền, trong đó có việc làm ô nhiễm rác thải và ô nhiễm chất dinh dưỡng (14.1)

Mục tiêu đến năm 2030:

* Giảm đáng kể số người chết và bị bệnh do ô nhiễm và nhiễm độc hóa chất độc hại, không khí, nước và đất (3.9).

* Đạt được sự tiếp cận phổ cập và công bằng với nguồn nước uống an toàn và có chi phí hợp lý cho tất cả mọi người (6.1.).

* Đạt được sự tiếp cận với điều kiện vệ sinh đầy đủ và công bằng cho tất cả mọi người, xóa bỏ việc đại tiện ngoài trời, đặc biệt quan tâm tới nhu cầu của phụ nữ, trẻ em gái và những người trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương (6.2).

* Cải thiện chất lượng nước thông qua giảm ô nhiễm, xóa bỏ các bãi rác và giảm thiểu phát thải các hóa chất độc hại thải, giảm một nửa tỷ lệ nước thải không được xử lý, tăng cường tái chế và tái sử dụng an toàn [X] phần trăm trên toàn cầu (6.3).

* Gia tăng đáng kể hiệu quả sử dụng nước trong tất cả các ngành và bảo đảm nguồn cung nước sạch bền vững nhằm giải quyết tình trạng khan hiếm nước và giảm đáng kể số người phải sống trong điều kiện khan hiếm nước (6.4.).

* Thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở tất cả các cấp, bao gồm thông qua hợp tác xuyên biên giới một cách phù hợp (6.5).

* Dần cải thiện hiệu quả các nguồn lực toàn cầu trong tiêu dùng và sản xuất và nỗ lực để tăng trưởng kinh tế không đi đôi với suy thoái môi trường, phù hợp với khung các chương trình 10 năm về sản xuất tiêu dùng bền vững, với vai trò đi đầu của các nước phát triển (8.1).

* Giảm tác hại của những tác động môi trường bình quân đầu người của các thành phố, trong đó có việc chú ý đặc biệt tới chất lượng không khí, quản lý chất thải đô thị và các nguồn chất thải khác (11.3).

* Đạt được quản lý bền vững và sử dụng hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên (12.2).

* Giảm đáng kể lượng chất thải phát sinh thông qua phòng ngừa, giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng (12.5).

* Bảo đảm rằng con người ở mọi nơi có thông tin phù hợp và nhận thức về phát triển bền vững và lối sống hài hòa với thiên nhiên (12.8).

(Nguồn: Trích dẫn từ danh sách dự thảo các SDGs kèm theo Công văn số 5331/BKHĐT-KHGDTNMT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 31/7/2015 gửi các bộ, ngành lấy ý kiến về dự thảo các SDGs)

b) Định hướng chiến lược bảo vệ môi trường (BVMT) nước ta

Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng trong việc thực hiện các MDGs, nhất là đối với các Mục tiêu về giảm nghèo, bình đẳng giới và giáo dục. Cụ thể, Việt Nam đã xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói từ năm 2002 (MDG 1); đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2010 (MDG 2). Việt Nam cũng đã cơ bản hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ; đã thành công trong việc kiểm soát sốt rét, một số dịch bệnh nguy hiểm, bước đầu ngăn chặn được sự lây lan HIV và đang ở trước ngưỡng hoàn thành Mục tiêu giảm tử vong ở trẻ em (MPI, 2014).

Đối với MDG 7, bảo đảm sự bền vững về môi trường, Việt Nam cũng đã đạt được một số kết quả nhất định về xây dựng thể chế, về tăng cường đầu tư… Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường ở nước ta đang gia tăng, tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học tiếp tục bị suy thoái, cạn kiệt, chất lượng môi trường sống ở nhiều khu vực bị suy giảm rõ rệt và nhìn chung, MDG 7 là chưa đạt được.

Theo lý thuyết về đường cong Kuznets (EKC) cũng như kinh nghiệm thực tiễn phát triển của nhiều nước, xu hướng gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa là tất yếu và chỉ khi đạt được một trình độ phát triển nhất định, thì sự suy thoái, ô nhiễm môi trường mới được cải thiện. Nước ta vừa mới ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy, trong giai đoạn 2016-2020, ô nhiễm, suy thoái sẽ vẫn là xu hướng môi trường chính.

Chiến lược BVMT quốc gia đến 2020, tầm nhìn đến 2030 (ban hành năm 2012) đã dự báo xu hướng ô nhiễm, suy thoái môi trường còn sẽ tiếp diễn đến 2030 và nhiều khả năng sau đó mới có được những cải thiện nếu có những điều kiện phù hợp. Dự báo đó được thể hiện qua mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến 2020 là “Kiểm soát, hạn chế về cơ bản mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; tiếp tục cải thiện chất lượng môi trường sống; nâng cao năng lực chủ động ứng phó với BĐKH, hướng tới mục tiêu PTBV đất nước” và tầm nhìn đến 2030 là “Ngăn chặn, đẩy lùi xu hướng gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; cải thiện chất lượng môi trường sống; chủ động ứng phó với BĐKH; hình thành các điều kiện cơ bản cho nền kinh tế xanh, ít chất thải, các-bon thấp vì sự thịnh vượng và PTBV đất nước”.

Năm 2013, BCH TƯ Đảng cũng đã thông qua Nghị quyết 24/NQ-TƯvề chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, đề ra mục tiêu đến 2020 là “về cơ bản, chủ động thích ứng với BĐKH, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính; có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường”. Nghị quyết cũng đề ra tầm nhìn, theo đó, đến 2050, chất lượng môi trường nước ta mới có thể “phấn đấu đạt các chỉ tiêu tương đương với mức hiện nay của các nước công nghiệp phát triển trong khu vực”.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, các định hướng chiến lược BVMT giai đoạn đến 2020 bao gồm: (i) Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường; (ii) Cải tạo, phục hồi môi trường, đẩy mạnh cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường; (iii) Khai thác, sử dụng hiệu quả bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (iv) Xây dựng năng lực để chủ động ứng phó với BĐKH.

c) Một số nhận xét, so sánh ban đầu về các SDGs và định hướng BVMT Việt Nam 2016-2020

Qua bước đầu nghiên cứu sơ bộ các chỉ tiêu cụ thể về môi trường của SDGs qua các mốc thời gian đến 2020, 2025 và 2030, cũng như xem lại các định hướng chiến lược BVMT nước ta đến 2020, tầm nhìn đến 2030 có thể rút ra một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, nhìn chung, tầm nhìn về định hướng chiến lược BVMT đến năm 2030 ở nước ta có sự tương đồng, phù hợp với tầm nhìn của SDGs về suy giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường sau 2030. Từ các mục tiêu cụ thể về môi trường của các SDGs, có thể nhận thấy, LHQ cho rằng từ sau năm 2030 môi trường ở phần lớn các quốc gia trên thế giới mới có thể đạt được sự “tách rời” (decoupling) giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm, suy thoái môi trường. Điều này được thể hiện rõ nét tại mục tiêu 8.1 và các mục tiêu đến 2030 đã trích dẫn ở trên. Điều này có nghĩa là ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên sẽ dần được khắc phục từ sau năm 2030. Định hướng chiến lược BVMT của Việt Nam đến 2030 về cơ bản cũng có tầm nhìn này.

Thứ hai, về tổng thể, có sự phù hợp trong nội dung các định hướng chung về BVMT, tuy nhiên có một số khác biệt trong cách tiếp cận. Định hướng chiến lược BVMT của Việt Nam được tiếp cận theo các hoạt động BVMT trong đó trước hết đề cập đến phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, tiếp đó là phục hồi, cải thiện, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó BĐKH… Các SDGs cũng đề cập đến các vấn đề kiểm soát ô nhiễm; phục hồi, cải thiện chất lượng môi trường; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; ứng phó với BĐKH.

Tuy nhiên, do được sắp xếp theo các lĩnh vực Nhân phẩm, Con người, Thịnh vượng, Hành tinh của chúng ta, Công lý và Quan hệ đối tác, (như trên đã đề cập), nên các nội dung về BVMT trong SDGs được sắp xếp tản mát theo 6 lĩnh vực xuyên suốt này mà không theo thứ tự về các hoạt động BVMT. Vì vậy, SDGs đã đưa ra một số cách tiếp cận khác, ví dụ như theo địa bàn, đặc biệt là xây dựng các thành phố chống chịu BĐKH, bền vững (SDG 11), hoặc nhấn mạnh vấn đề nguồn nước. Xây dựng các thành phố thông minh, chống chịu với BĐKH, bền vững về môi trường là vấn đề rất quan trọng bởi vì trong 10-15 năm tới, các thành phố sẽ là nơi sinh sống của con người. Có thể nhận thấy, ưu tiên lớn nhất của SDGs là vấn đề Con người, trước hết cần phải bảo đảm cho con người có được những điều kiện tốt nhất về ăn uống, giáo dục, nơi cư trú...

Thứ ba, có sự khác biệt trong xây dựng các ưu tiên về BVMT trong giai đoạn 2016-2020. Cụ thể, trong SDGs các mục tiêu về BVMT đến 2020 chủ yếu đề cập đến bảo tồn đa dạng sinh học như bảo vệ tính bền vững của các hệ sinh thái, bảo vệ và phục hồi rừng, chấm dứt tình trạng mất sự đa dạng sinh học... Các mục tiêu về kiểm soát ô nhiễm được để cho giai đoạn dài hơi hơn, đến 2025 và 2030; cụ thể như kiểm soát ô nhiễm biển để sang giai đoạn đến 2025 (mục tiêu 14.1), hay như xử lý nước thải, chất thải rắn để đến 2030 (mục tiêu 6.3, 11.3, 12.5). Trong khi đó, song song với bảo tồn đa dang sinh học, Chiến lược BVMT quốc gia đến 2020 của Việt Nam lại đặt ra nhiều mục tiêu khá “lạc quan” trong kiểm soát ô nhiễm (về quản lý chất thải rắn, nước thải...) đến 2020. Để các mục tiêu kiểm soát ô nhiễm sang giai đoạn dài là phù hợp hơn bởi điều này phù hợp với quy luật của đường cong EKC, với kinh nghiệm thực tiễn phát triển. Để có thể kiểm soát được ô nhiễm đòi hỏi phải có một nguồn lực rất lớn mà các nước mới ở giai đoạn đầu của công nghiệp hóa khó có thể đáp ứng.

Thứ tư, việc thực hiện một số chỉ tiêu cụ thể về BVMT đến năm 2020 của SDGs ở nước ta sẽ gặp nhiều thách thức. Một số chỉ tiêu môi trường mà các SDGs đề ra đến năm 2020 hoặc chưa có trong định hướng chiến lược BVMT, hoặc sẽ khó đạt được ở nước ta. Cụ thể, chỉ tiêu về tăng phần trăm số thành phố và khu định cư toàn diện, hiệu quả tài nguyên, ứng phó với BĐKH, chống chịu với thiên tai (Mục tiêu 11.b) là chưa có. Một số chỉ tiêu khác như: quản lý thân thiện với môi trường các loại hóa chất và tất cả chất thải (chỉ tiêu 12.4); bảo tồn ít nhất 10% các khu vực biển và ven biển (14.5);chấm dứt việc chặt phá rừng, phục hồi rừng bị suy thoái (15.2); chấm dứt tình trạng mất sự đa dạng sinh học, và đến năm 2020 bảo vệ và ngăn chặn không để xảy ra sự tuyệt chủng của các loài hiện đang bị đe dọa (15.5)..., nhìn chung là khó thực hiện được sau 5 năm nữa trong hoàn cảnh nước ta hiện nay.

III. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Có thể nhận thấy rằng, các SDGs đã được thể hiện trong các Chương trình nghị sự về PTBV của Việt Nam (Agenda 21), Định hướng chiến lược PTBV giai đoạn 2011-2020, Chiến lược BVMT quốc gia đến 2020, tầm nhìn 2030. Nhìn chung, có sự phù hợp về tầm nhìn và nội dung về BVMT từ nay đến năm 2030 giữa các SDGs và định hướng BVMT nước ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, nhiều mục tiêu SDGs về môi trường là những thách thức khá lớn đối với nước ta.

Trên đây mới chỉ là một số nhìn nhận, đánh giá sơ bộ ban đầu về các SDGs về môi trường. Trong thời gian tới, cần tổ chức nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, có những đánh giá sâu sắc hơn về các mục tiêu môi trường và BĐKH trong SDGs, xác định các thách thức, để làm cơ sở cho việc định hướng công tác BVMT giai đoạn 2016-2020 và các giai đoạn tiếp theo. Việt Nam cần phải xây dựng các mục tiêu PTBV cho riêng mình (các VDGs) với hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể, khả thi cho tất cả các lĩnh vực, trong đó có BVMT và lồng ghép được các VDGs này vào các chính sách phát triển. Bên cạnh đó, cần nhận thức rằng, giảm nghèo là mục tiêu bao trùm trong SDGs, đặc biệt ở nước ta việc giảm nghèo còn chưa bền vững. Vì vậy, vấn đề giảm nghèo cần được lồng ghép trong định hướng công tác BVMT. Cần tạo sinh kế cho người nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, ở các khu vực dễ bị tổn thương… gắn với bảo vệ, gìn giữ các hệ sinh thái, tăng cường khả năng chống chịu. Cần phát triển nền kinh tế xanh gắn với phục hồi, gìn giữ nguồn vốn tự nhiên. Cuối cùng, cần tích cực thúc đẩy việc thực thi hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược BVMT, các quy định của chính sách, pháp luật thì mới có thể góp phần đạt được các mục tiêu quốc gia, góp phần đạt được SDGs.

 

TS. Nguyễn Trung Thắng
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
(Bài viết đã được đăng tại Kỷ yếu Hội nghị môi trường toàn quốc lần thứ IV, tháng 9 năm 2015)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Prokop M., Từ các mục tiêu thiên thiên kỷ đến các mục tiêu phát triển bền vững – quan điểm toàn cầu, 2015.
  2. Bộ Kế hoach và Đầu tư (MPI), Những kết quả chủ yếu về thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam, Hội thảo cấp cao ngày 17/4/2015.
  3. Vũ Duy Tuấn, Báo cáo về SDGs tạiHội thảo thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững: Nhấn mạnh vai trò của vốn tự nhiên trong khu vực tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) ngày 14/5/2015.
  4. Hội đồng Liêp hợp quốc - Nhóm Công tác mở (2014), Đề xuất các Mục tiêu Phát triển Bền vững, Download từ https://sustainabledevelopment.un.org/sdgsproposal ngày 16/3/2015.

NỘI DUNG KHÁC

Lựa chọn cách ứng xử với môi trường

25-12-2016

Năm 2016 là năm ghi nhận nhiều thảm họa môi trường, điều ấy như một lời cảnh tỉnh về cách lựa chọn của chúng ta đối với việc phát triển kinh tế xã hội trong cả một giai đoạn dài. Lúc này, thay vì chỉ chú trọng vào mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam cần hành động quyết liệt để biến những cam kết phát triển bền vững trở thành hiện thực, bắt đầu từ lựa chọn cách ứng xử với môi trường.

Nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp thực hiện các cam kết về tài nguyên và môi trường trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)

21-2-2017

  Ngày 5/10/2015, sau 5 năm với 19 vòng đàm phán chính thức, Bộ trưởng Thương mại của 12 nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam đã ký thông qua Hiệp định TPP (văn bản chính thức được ký kết vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand). Đây là Hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên đưa các nội dung về môi trường thành một chương trong các cam kết (Chương 20 với 23 Điều). Điều này khẳng định vị trí của TN&MT như một nhân tố quan trọng trong các hoạt động thương mại và những đóng góp của thương mại đối với phát triển bền vững. Mục tiêu của Chương Môi trường là thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và môi trường; tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao hơn và thực thi hiệu quả luật pháp về môi trường; tăng cường năng lực của các Bên để giải quyết các vấn đề về môi trường liên quan đến thương mại.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đề xuất khung bộ chỉ số giám sát, đánh giá thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA) trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam

25-2-2017

Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội như nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng,… ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến con người và hệ sinh thái. Nhiều giải pháp thích ứng được tính đến và thực hiện, trong đó giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái là giải pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ trong các hoạt động ứng phó với BĐKH nhằm đạt được đồng lợi ích về bảo tồn ĐDSH và giảm nghèo. Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái cũng chỉ ra mối quan hệ không thể tách rời giữa con người và hệ sinh thái. EBA đặc biệt liên quan đến việc quản lý, bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái để cung cấp cho con người khả năng phục hồi đối với các tác động của BĐKH. Mục tiêu hướng tới của giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái là quản lý bền vững, bảo tồn và khôi phục các hệ sinh thái nhằm để cung cấp các dịch vụ sinh thái giúp người dân thích ứng với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, giảm khả năng dễ bị tổn thương và nâng cao khả năng phục hồi trước những rủi ro, tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra.

Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất thải nhựa trên biển

9-3-2017

Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) đã thông qua Tuyên bố chung “Tương lai chúng ta mong muốn” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển do vấn đề chất thải nhựa trên biển gây ra. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 25/9/2015. Chương trình nghị sự đưa ra một kế hoạch hành động gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và 169 chỉ tiêu cụ thể. Mục tiêu 11, 12 và 14 đặc biệt quan hệ mật thiết tới vấn đề rác thải nhựa trên biển, dù cả 17 mục tiêu đều ít nhiều liên quan.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động tài nguyên và môi trường để đưa ra các phương án đề xuất, đề tài nghiên cứu mức độ cao hơn, phù hợp thực tiễn của Việt Nam

19-4-2017

Do mối quan hệ tương tác phức tạp của các yếu tố (kinh tế, xã hội và tài nguyên, môi trường) chưa được xem xét, đánh giá một cách khoa học và toàn diện nên việc xây dựng chính sách, chiến lược khả thi chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Mô hình hóa được coi là một công cụ hiệu quả, có thể giúp kiểm tra, đánh giá những tác động về kinh tế, sinh thái và môi trường của các chính sách khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, từ đó, xây dựng các phương án, đề xuất, định hướng thích hợp. Việc nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình hóa trong dự báo biến động, xu thế tài nguyên và môi trường không chỉ có ý nghĩa khoa học về phát triển công cụ dự báo mới trong trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường ở Việt Nam mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong phục vụ, hoạch định các chính sách, chiến lược hiệu quả lâu dài.

Monitoring influence of urbanization on urban thermal environment using multi-temporal LANDSAT imagery: application to Da Nang city

25-4-2017

This study illustrates urbanization in Da Nang city and its impacts on local thermal environments using remote sensing. In this study, multi-generation Landsat images from 1990, 1995, 2000, 2005, 2010 and 2014, were used to assess the city’s urban expansion and accompanied land surface temperature (LST) characteristics. Results showed that Da Nang urban expanded twice in 2014 (8,634 ha) comparing to 1990 (4,485 ha) and high temperature anomalies were closely associated with built-up and bare-soil land-covers. As consequence, areas covered by the highest LST correspondently expanded from centres of Thanh Khe, Hai Chau districts to mostly all 6 present downtown districts. The mean LST difference between the urban downtown area and the suburban area tends to increase over time, from 7.3 oC in 1990 to 11.9 oC in 2014. In the context of moving towards “a friendly environmental Da Nang city”, this  study  provides  useful  information  for  understanding  the  local  climatic  and  environment  changes  that  occurred  during  rapid urbanization.

Tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam

5-10-2018

Vấn đề tổn thất và thiệt hại (Loss and Damage) do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra đã được hình thành và phát triển qua các hội nghị các bên (COP) của Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đó, tổn thất và thiệt hại (TT&TH) lần đầu tiên được đề cập trong Kế hoạch hành động Bali ở COP 13 năm 2007, đến COP 16 (năm 2010), Hội nghị đã đưa “tổn thất và thiệt hại” thành một chương trình làm việc (work program) trong Khung khổ các hoạt động thích ứng Cancun (Cancun Adaptation Framework). Ở COP 19 năm 2013, Hội nghị đã thiết lập Cơ chế Vac-sa-va về tổn thất và thiệt hại (Warsaw International Mechanism for Loss and Damage) đồng thời đã thành lập Ủy ban về TT&TH. Gần đây nhất, Thỏa thuận lịch sử về BĐKH ở Pari, COP 21 năm 2015, cũng đã đề cập và yêu cầu “các bên tham gia (UNFCCC) phải tăng cường hiểu biết, hành động, hỗ trợ, bao gồm cả thông qua Cơ chế Vac-sa-va, trên cơ sở hợp tác, về các tổn thất và thiệt hại từ các tác động tiêu cực do BĐKH gây ra” (UNFCCC, 2015).

Bàn về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và định hướng phát triển năng lượng tái tạo

5-10-2018

  Theo báo cáo Những số liệu thống kê năng lượng chính của thế giới của Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) năm 2017, lượng tiêu thụ năng lượng hóa thạch vào năm 2015 của thế giới vẫn chiếm tỷ trọng 81,4% (số còn lại là năng lượng mới hay còn gọi là năng lượng tái tạo). Năm 1973, tỷ trọng này là 86,7% (trong đó chỉ riêng dầu lửa chiếm 46,2%). Như vậy sau 42 năm, thế giới chỉ giảm được 5,3% mức tiêu thụ năng lượng hóa thạch nhờ sự tăng trưởng nhẹ của năng lượng sạch.

Nghiên cứu tính toán độ ẩm của đất khu vực Bắc Tây Nguyên sử dụng ảnh Landsat 8

11-10-2018

Tính toán độ ẩm của đất sử dụng dữ liệu vệ tinh là một trong những ứng dụng cơ bản. Giám sát độ ẩm của đất giúp chúng ta quan trắc được hạn hán xảy ra tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Nghiên cứu này sử dụng các kết quả đo, tính toán độ ẩm của đất trong phòng thí nghiệm và phân tích ảnh vệ tinh Landsat 8 OLI thu được trong tháng 3 năm 2015 để xây dựng phương trình tính toán độ ẩm của đất tại khu vực Bắc Tây Nguyên. Kết quả phân tích cho thấy độ ẩm của đất có quan hệ chặt chẽ với tỷ số kênh 5 trên kênh 7 của ảnh Landsat 8 bằng phương trình hàm số logarit (r2=0.73, SE = 0.07). Độ ẩm của đất nhỏ hơn 90% có độ tương quan cao với khu vực chịu ảnh hưởng của hạn hán và điều kiện khí hậu tại khu vực Bắc Tây Nguyên.

Liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu - nhìn từ vai trò của cơ quan chính quyền địa phương

19-10-2018

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã chỉ rõ quan điểm: “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng”. Giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay không còn là vấn đề chung của Chính phủ, của từng địa phương, mà các địa phương cần phải bắt tay, hợp nhất cùng giải quyết vấn đề chung mà xã hội đang phải đối mặt. Bài viết này nhằm phân tích vai trò và đưa ra một số đề xuất khuyến khích chính quyền cấp tỉnh tham gia liên kết địa phương trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Nghiên cứu giám sát độ trong của nước biển vịnh Hạ Long sử dụng ảnh vệ tinh Landsat 8

24-10-2018

Nghiên cứu này nhằm trình bày phương pháp tính toán độ trong của nước vịnh Hạ Long sử dụng dữ liệu thu được từ ảnh Landsat 8. Trong đó, các phép phân tích tuyến tính giữa phổ phản xạ đo được thực tế trên bề mặt nước hoặc phổ phản xạ của ảnh Landsat 8 và độ trong của nước vịnh đo cùng thời kỳ đều cho giá trị tương quan cao giữa giá trị độ sâu thấu quang đo bằng đĩa Secchi (thông số hiển thị độ trong của nước) của nước vịnh với phổ phản xạ của dải sóng đỏ ứng với phổ phản xạ thu được ở kênh 4 ảnh Landsat 8. Dựa vào mối quan hệ này, độ trong nước vịnh Hạ Long có thể tính toán sử dụng hàm số mũ của phổ phản xạ của kênh 4 của ảnh. Kết quả tính toán thử nghiệm thu được ở các ảnh vào các thời điểm khác nhau đều cho giá trị có độ chính xác cao so với thông số đo đạc thực tế được tiến hành bởi Ban Quản lý vịnh Hạ Long. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng ảnh vệ tinh Landsat trong giám sát các thông số chất lượng môi trường nước vịnh Hạ Long, đặc biệt là độ trong của nước vịnh cho hiệu quả cao cả về chất lượng và kinh tế trong giám sát quản lý môi trường vịnh.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ nhằm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”

27-10-2018

Nghị quyết 24-NQ/TW sau khi ban hành đã được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương; các chủ trương, chính sách của Nghị quyết đã được thể chế hóa; vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) trong việc triển khai Nghị quyết đã được khẳng định; nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý tài nguyên (QLTN) và bảo vệ môi trường (BVMT) đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định xét trong bối cảnh mới đối với phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính vì lý do đó, sau 5 năm triển khai Nghị quyết cần có sự đánh giá đầy đủ và toàn diện vai trò của KHCN trong việc thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW, từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn, nhất là xét trong bối cảnh mới của cách mạng 4.0 và những biến đổi trên thế giới, những ứng dụng của KHCN cho phát triển kinh tế-xã hội.