ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Các vấn đề môi trường của Việt Nam trong bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2022

Ngày đăng: 08 | 05 | 2023

Trong kết quả công bố Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu (Global Innovation Index, gọi tắt là GII) năm 2022, Việt Nam xếp hạng 48/132 quốc gia và được ghi nhận trong nhóm các quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ. Tuy nhiên, kết quả xếp hạng các vấn đề về môi trường trong GII lại xếp trong nhóm các quốc gia đạt kết quả thấp so với trình độ phát triển của đất nước. Bài viết này phân tích phương pháp tính toán và kết quả đánh giá của GII cho Việt Nam về các vấn đề môi trường. Từ đó nhằm đưa ra một số đề xuất để cải thiện chỉ số trong thời gian tới.

        Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu - GII được đưa ra năm 2007 bởi Tổ chức sở hữu trí tuệ toàn cầu (World Intellectual Property Organization viết tắt là WIPO). Chỉ số này nhằm mục đích nắm bắt các khía cạnh đa chiều của đổi mới, sáng tạo của các nền kinh tế, trong đó, mức độ đổi mới, sáng tạo được đánh giá dựa trên hai chỉ số thành phần (sub-index): chỉ số thành phần đầu vào gắn chặt với các yếu tố kinh tế xã hội làm nền tảng và tiền đề cho các hoạt động đổi mới/sáng tạo gồm 5 chỉ số trụ cột (Pillars) và 36 chỉ tiêu (indicators); Và Chỉ số thành phần đầu ra biểu thị cho kết quả của quá trình đổi mới/sáng tạo gồm 2 chỉ số trụ cột và 18 chỉ tiêu. Trong cấu trúc của GII, các vấn đề về môi trường được đánh giá thông qua chỉ số “Bền vững sinh thái” – là một trong các chỉ số đầu vào nằm trong trụ cột về Cơ sở hạ tầng. Chỉ số này bao gồm 3 chỉ tiêu gồm: (1) Chỉ tiêu GDP/đơn vị năng lượng sử dụng; (2) Chỉ tiêu Kết quả bảo vệ môi trường  và (3) Chỉ tiêu số chứng nhận môi trường ISO 14001/GDP.

Trong báo cáo GII 2022, trong 132 nền kinh tế được đánh giá, Việt Nam xếp hạng thứ 48/132. Hơn nữa, trong 36 nền kinh tế có mức thu nhập trung bình thấp được xếp hạng, Việt Nam đứng thứ 2, sau Ấn Độ. Trong khu vực, Việt Nam tiếp tục đứng thứ 4 sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Trong khi chỉ số GII tổng hợp đạt kết quả khả quan như trên, chỉ số “Bền vững sinh thái” lại được đánh giá là một trong những điểm yếu trong kết quả đánh giá chung, chỉ đạt mức điểm đánh giá 17/100 và xếp hạng thứ 113/132 nền kinh tế được đánh giá, giảm 18 bậc so với năm 2021.

Trong 3 chỉ tiêu đóng góp điểm số cho chỉ số “Bền vững sinh thái”, chỉ tiêu Kết quả bảo vệ môi trường là chỉ tiêu có kết quả đánh giá yếu nhất, xếp hạng ở vị trí 128/129 quốc gia và giảm 18 bậc so với năm 2021. Thực tế, chỉ tiêu này được trích nguồn đánh giá trực tiếp từ Chỉ số Hoạt động môi trường (EPI-Environmental Performance Index) do Đại học Yale (Mỹ) xây dựng và công bố 2 năm. Kết quả báo cáo EPI năm 2022 đánh giá cho 180 quốc gia trên thế giới, trong đó, Việt Nam xếp hạng thứ 178/180 (chỉ trên Myanmar ở bậc thứ 179/180 quốc gia) với điểm số tổng hợp là 20,1/100. So với năm 2020, thứ hạng xếp hạng của Việt Nam đã giảm 37 bậc, từ bậc 141/180 quốc gia năm 2022. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi điểm và thứ bậc đánh giá xếp hạng của EPI là do sự thay đổi chỉ tiêu đánh giá, phương pháp tính toán và nguồn số liệu đánh giá của EPI. Trong đó, năm 2022, EPI bổ sung trọng số cho nhóm vấn đề về Chính sách khí hậu và bổ sung 8 chỉ tiêu đánh giá so với năm 2020. Do sự thay đổi về phương pháp, EPI khuyến nghị không nên nhìn nhận xu hướng chất lượng môi trường quốc gia thông qua vị trí xếp hạng của các năm khác nhau. Ngược lại, cần đánh giá xu hướng chất lượng môi trường bằng cách so sánh kết quả năm đánh giá với năm cơ sở (chủ yếu là sử dụng dữ liệu 10 năm trước, từ 2010-2012). Theo kết quả đánh giá xu hướng, điểm số đánh giá của Việt Nam chỉ giảm 0,6 điểm so với tham chiếu 10 năm trước. Điều này cho thấy xu hướng các vấn đề môi trường Việt Nam không suy giảm đáng kể.

Đối với chỉ tiêu GDP/đơn vị năng lượng sử dụng, Việt Nam được xếp hạng ở vị trí số 91/128 quốc gia, giảm 1 bậc so với năm 2021. Thực tế, kết quả GDP trên mỗi đơn vị năng lượng sử dụng của Việt Nam có chiều hướng tăng dần từ năm 2018 là 6,99 đôla Mỹ/1 kg dầu đến 2022 đạt cao nhất là 8,1 đô la Mỹ/1 kg dầu. Mặc dù có giá trị tăng dần song khi so sánh với mức thay đổi của các quốc gia khác thì Việt Nam có những tiến bộ chậm hơn, do đó vị trí xếp hạng của Việt Nam vẫn giảm bậc từ mức 85/118 nền kinh tế năm 2018 đến mức 91/128 năm 2022.

Chỉ tiêu về số chứng chỉ ISO 14001 trên tổng GDP quốc gia được đánh giá là một mặt mạnh của Việt Nam trong số các nền kinh tế có thu nhập trung bình. Năm 2022, chỉ tiêu đạt kết quả 1,8 chứng chỉ trên 1 tỷ đô GĐP, tăng 0,3 so với năm 2021 (đạt kết quả 1,5 chứng chỉ trên 1 tỷ đô GDP). Vị trí xếp hạng của Việt Nam cho chỉ tiêu này cũng có sự cải thiện từ vị trí 55/129 quốc gia năm 2021 lên vị trí 54/132 quốc gia năm 2022.

Đề xuất định hướng cải thiện điểm số đánh giá về môi trường của Việt Nam trong GII

Kết quả của GII về chỉ số “Bền vững sinh thái” năm 2022 chỉ đạt mức điểm đánh giá 17/100, xếp hạng thứ 113/132 nền kinh tế và giảm 18 bậc so với năm 2021. Với kết quả như trên, GII đánh giá vấn đề Bền vững sinh thái của Việt Nam là đạt kết quả thấp so với trình độ phát triển của nước ta. Do đó, cần có các giải pháp nhằm cải thiện điểm số xếp hạng của chỉ số. Trong đó, trước hết là chỉ tiêu về kết quả bảo vệ môi trường. Chỉ tiêu này đang ở vị trí xếp hạng 128/129 quốc gia được đánh giá. Thực tế như phân tích ở trên, việc tụt bậc xếp hạng của chỉ tiêu này chủ yếu là do sự thay đổi các khía cạnh kỹ thuật trong phương pháp tính và đánh giá chỉ tiêu. Tuy nhiên, để giảm bất lợi khi so sánh với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cần cân nhắc đẩy mạnh việc thực hiện một số vấn đề môi trường hiện nay đang được đánh giá với điểm số thấp, còn yếu kém của Việt Nam. Cụ thể như sau:

Thứ nhất: Đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu về Biến đổi khí hậu như giảm cường độ phát thải và xu hướng phát thải các khí nhà kính quan trọng (CO2, NH4, N2O) và các chất ô nhiễm khí hậu (bụi các bon và khí Flo hóa). 

Thứ hai; Các vấn đề về bảo vệ sức sống các hệ sinh thái cần cải thiện các chỉ tiêu về axit hóa (Cường độ phát thải Sulfur Dioxide (SO2) và Nitrogen Oxides- NOx) và tập trung nâng cao các chỉ tiêu về độ che phủ cây xanh, tỷ lệ xử lý nước thải. Về đa dạng sinh học, cần chú trọng đến các vấn đề về bảo vệ các loại hình hệ sinh thái có tính tiêu biểu, các khu vực đa dạng sinh học cao, các khu vực là nơi cư trú của các loài hoang dã, quý hiếm.

Thứ ba: Về vấn đề bảo vệ sức khỏe con người trước nguy cơ ô nhiễm môi trường, cần cải thiện các vấn đề về chất lượng không khí như phơi nhiễm bụi lơ lửng PM2,5 và hợp chất hữu cơ dễ bay hơi; Sử dụng nguyên liệu hóa thạch trong hộ gia đình; Cường độ phát thải sulfur dioxide (SO2) và nitơ oxit (NOX).

Đây là vấn đề môi trường quan trọng được đánh trọng số cao, do đó, cải thiện được điểm số của các chỉ tiêu trên có tiềm năng nâng cao điểm số chỉ số tổng hợp và vị trí xếp hạng.

 

Vũ Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Ngọc Ánh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

NỘI DUNG KHÁC

Khung pháp lý thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh trong pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam

10-5-2023

 Phát triển thị trường tín dụng xanh (TDX), trái phiếu xanh (TPX) đang là xu hướng nổi lên mạnh mẽ ở phạm vi toàn cầu, với sự tham gia ngày càng nhiều các quốc gia phát triển cũng như tổ chức tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)... [1] Hai kênh huy động vốn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về môi trường, khí hậu.

Áp dụng các công cụ hỗ trợ phân tích đánh đổi trong xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường

11-5-2023

 Trong bối cảnh hiện nay, khi những tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), ô nhiễm môi trường tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), bài toán đặt ra đối với mỗi một quốc gia là cần có những quyết định phù hợp, bảo đảm yêu cầu về phát triển bền vững. Đối mặt với những thách thức đó, trong quá trình lập quy hoạch, việc tìm kiếm một giải pháp tối ưu tuyệt đối là không thực tế, đặc biệt là khi các tiêu chí về ưu tiên kinh tế hay môi trường có sự mâu thuẫn với nhau.

Kinh nghiệm quốc tế về thống kê giá trị của tài nguyên đất vào hệ thống tài khoản quốc gia và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

12-5-2023

Bài viết trình bày kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới xây dựng khung hạch toán tích hợp kinh tế - môi trường (EEA) cho những loại tài nguyên chính, trong đó có đất đai nhằm thống kê đầy đủ các giá trị của đất về mặt không gian, chất lượng và giá trị về mặt tiền tệ. Từ đó, bài báo cũng đưa ra một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam về thống kê giá trị của tài nguyên đất vào hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).

Một số vấn đề lý luận về xây dựng định hướng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngành tài nguyên và môi trường của Việt Nam

15-5-2023

Việt Nam vừa ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Trước khi ban hành Chiến lược, việc tổng kết và đánh giá kết quả Chiến lược khoa học và công nghệ giai đoạn trước được thực hiện và rút kinh nghiệm, đồng thời đưa ra định hướng cho giai đoạn tiếp theo. Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia vừa là định hướng vừa là tổng hợp từ các chiến lược khoa học và công nghệ ngành, lĩnh vực. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang tiến hành tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ trong ngành tài nguyên và môi trường giai đoạn 2011-2020 và xây dựng định hướng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của ngành giai đoạn 2021-2030.

Đề xuất Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng phát triển bền vững

16-5-2023

Trên thế giới, bền vững môi trường ngày càng được chú trọng trong chính sách phát triển của các nước. Các mục tiêu bền vững chỉ đạt được khi có những chính sách phát triển phù hợp và việc thực hiện hiệu quả các chính sách quản lý môi trường và tài nguyên. Tuy nhiên công tác hoạch định chính sách, đánh giá hiệu quả thực hiện các chính sách này trong phạm vi một quốc gia, hay so sánh trong khu vực, hay hẹp hơn như so sánh giữa các vùng, tỉnh trong một quốc gia, đòi hỏi cách thức tiếp cận khoa học, có căn cứ, là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách, các cấp quản lý gặp khó khăn.

Thực trạng và chính sách phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực rác thải điện tử

19-5-2023

Sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đi cùng với sự đổi mới sáng tạo công nghệ đã khiến việc sản xuất các thiết bị điện, điện tử phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội giúp cho đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tầng lớp trung lưu, thượng lưu cũng gia tăng dẫn đến nhu cầu thay đổi các sản phẩm điện, điện tử ngày càng lớn. Điều này dẫn đến tuổi đời ngày càng ngắn của các sản phẩm điện, điện tử, có nghĩa là có nhiều rác thải điện tử được sinh ra hơn trong nền văn hóa “nâng cấp và thải bỏ” ngày nay. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi mà lượng rác thải điện tử trong nước ngày càng tăng nhanh tạo ra những áp lực đối với công tác xử lý loại chất thải đặc thù này. Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra những quy định về phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH), về trách nhiệm tái chế, xử lý các sản phẩm thải bỏ trong đó có rác thải điện tử. Bài viết sau đây tổng quan thực trạng về rác thải điện tử ở Việt Nam, đánh giá các khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý từ đó đưa ra các đề xuất để thúc đẩy phát triển mô hình KTTH trong lĩnh vực rác thải điện tử.

Huy động nguồn lực thực hiện NDC: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

19-5-2023

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trở thành thách thức chung của toàn nhân loại. Nỗ lực để hạn chế các nguyên nhân gây ra BĐKH là trách nhiệm của mỗi quốc gia, lĩnh vực và cá nhân. Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực để chủ động ứng phó với BĐKH thông qua việc triển khai đồng thời hoạt động thích ứng, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK). Quyết tâm, cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế chống lại BĐKH được thể hiện thông qua Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2020 và đệ trình Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC).

Thực trạng và chính sách thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào lĩnh vực xử lý nước thải ở Việt Nam

19-5-2023

Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Với những thay đổi thể chế, chính sách đã tạo động lực cho khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII năm 2017 đã chỉ rõ quan điểm “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta".

Tình hình thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển bền vững về môi trường ở Việt Nam

22-5-2023

Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (PTBV), được tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thông qua vào năm 2015, kêu gọi sự chung tay hành động xóa đói giảm nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo đến năm 2030 tất cả cư dân toàn cầu đều được hưởng hòa bình và thịnh vượng. Chương trình đưa ra 17 mục tiêu PTBV (SDG), 169 mục tiêu cụ thể, định hướng phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động triển khai.

Một số cơ sở lý luận về thiết lập tài khoản đại dương

23-5-2023

Đại dương là nguồn sinh kế quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), góp phần điều hòa khí hậu và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG14 (Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển cho phát triển bền vững) của các nước trên thế giới.

Vai trò, xu hướng áp dụng các tiêu chuẩn để thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn và khuyến nghị cho Việt Nam

24-5-2023

 Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là cách tiếp cận chính sách giúp các nhà hoạch định, nhà quản lý nhìn nhận sự vận hành của nền kinh tế và tìm ra giải pháp hoàn thiện thúc đẩy xã hội áp dụng KTTH. Có nhiều công cụ chính sách khác nhau đang được bàn luận và áp dụng tại các quốc gia trên thế giới như mua sắm công xanh, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (Extended Producer Responsibility-EPRs), tài chính xanh, nhãn sinh thái, các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ về thuế/phí… Một trong những công cụ có vai trò quan trọng để thúc đẩy áp dụng KTTH là “tiêu chuẩn, quy chuẩn”. Bài viết phân tích vai trò, ý nghĩa trong tiếp cận về tiêu chuẩn, quy chuẩn, xu hướng phát triển tiêu chuẩn để thúc đẩy áp dụng KTTH và khuyến nghị cho Việt Nam.

Một cách tiếp cận đánh giá kết quả thực hiện chiến lược trong khu vực công tại Việt Nam

24-5-2023

 Hoạt động đánh giá chiến lược sau khi ban hành tại Việt Nam dần nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, hoạt động này đa phần tập trung vào sơ kết hoặc tổng kết kết quả khi chuẩn bị xây dựng chiến lược cho giai đoạn mới. Hoạt động đánh giá kết quả chiến lược cũng chưa có hướng dẫn thống nhất nào về phương pháp, công cụ cũng như quy trình đánh giá.