TIN TỨC-SỰ KIỆN

Tính khả thi của dự án 1 triệu tấn lúa chất lượng cao.

Ngày đăng: 26 | 09 | 2006

Trong thời gian qua mặc dù ngành nông nghiệp đã nỗ lực rất nhiều trong việc cải thiện chất lượng lúa gạo trong khu vực, nhưng kết quả còn nhiều hạn chế. Không phải vô căn cứ khi có ý kiến cho rằng dự án "1 triệu tấn lúa chất lượng cao" khó khả thi.

Trong thời gian qua mặc dù ngành nông nghiệp đã nỗ lực rất nhiều trong việc cải thiện chất lượng lúa gạo trong khu vực, nhưng kết quả còn nhiều hạn chế. Không phải vô căn cứ khi có ý kiến cho rằng dự án "1 triệu tấn lúa chất lượng cao" khó khả thi.|

Theo GS-TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng trường Đại học An Giang, dự án "1 triệu tấn lúa chất lượng cao" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đề ra khó lòng thực hiện được. Theo ông Xuân, dự án được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa về tỉnh, tỉnh triển khai xuống huyện rồi bỏ đó, ai muốn làm thì làm, không làm cũng không sao, không có kiểm tra đôn đốc thực hiện.

Trong khi đó, 7 giống lúa có tên trong chương trình không đảm bảo đủ giống. Hai là, đặc tính của nông dân thì hay tuỳ tiện, nếu cứ để họ làm linh tinh thì không thể nào đạt yêu cầu. Chúng ta có thể có khối lượng 1 triệu tấn, nhưng chất lượng thì không thể đạt cao như mong muốn.

Theo ông Xuân, muốn có 1 triệu tấn lúa chất lượng cao để phục vụ xuất khẩu như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đề ra trong dự án, trước hết ngành nông nghiệp phải tổ chức và khoanh vùng sản xuất, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ 4 nhà. Chúng ta không thể để nông dân tự làm một mình. Cụ thể tỉnh An Giang có thể làm ra được 250.000 tấn lúa/1triệu tấn. Thế nhưng 250.000 tấn lúa này nằm ở chỗ nào? Chất lượng có đạt không? Chúng ta phải có bản đồ khoanh vùng.

Từ vùng lúa này xem giống lúa nào thích hợp nhất trong số 7 giống lúa mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đưa ra, sẽ tiến hành cho nhân giống lúa đó thật thuần chủng, huấn luyện nông dân trong vùng trồng lúa theo đúng kỹ thuật mà lúa chất lượng cao đòi hỏi. Rồi thì phải xác định thời gian xuống giống, bón phân lúc nào, bón phân gì, bảo vệ thực vật như thế nào? Nông dân trồng lúa chất lượng cao phải tuân thủ đúng những điều kiện nêu trên.

Muốn đạt được như vậy phải có bộ máy đi kiểm tra cách thực hiện của nông dân.  Sản lượng lúa cao, chất lượng lúa tốt sẽ bảo đảm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Vì vậy doanh nghiệp sẽ là người chịu trách nhiệm đứng ra tổ chức bộ máy kiểm tra chất lượng khi ký hợp đồng thu mua lúa với nông dân. Tức là thành lập và vận hành bộ máy này.

Do đó, phải gắn lợi ích của doanh nghiệp với nông dân. Nhưng làm sao để doanh nghiệp nhận biết và chịu gắn kết với nông dân, đây lại là một câu hỏi mà thời gian qua chúng ta vẫn chưa có đáp án thích hợp. Qua việc triển khai thực hiện chương trình "1 triệu tấn lúa chất lượng cao" đã cho thấy, từng hộ nông dân nhỏ lẻ không thể đứng ra ký hợp đồng với doanh nghiệp. Mà các HTX nông nghiệp hiện nay thì quá yếu. Chưa phải là một đơn vị hợp tác làm kinh tế đúng nghĩa.

GS-TS Võ Tòng Xuân đề cao vai trò của Nhà nước trong việc tạo mối liên kết thật sự giữa doanh nghiệp với nông dân. Trách nhiệm của nhà quản lý là làm thế nào gắn được doanh nghiệp với nông dân.

Trong đó, Nhà nước phải đứng ra làm người tổ chức. Có tổ chức, có giao - nhận và có quản lý và kiểm tra thực hiện. Nếu vẫn làm theo kiểu cũ thì giá trị của gạo Việt Nam sẽ tiếp tục đi xuống, ông Xuân khẳng định.

http://www.vneconomy.com.vn

NỘI DUNG KHÁC

SWOT cho phân tích ngành hàng – Trường hợp ngành hồ tiêu (Kỳ II)

26-9-2006

Trong những năm gần đây, sản xuất và xuất khẩu hạt tiêu Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ và hiện chiếm vị trí số một thế giới cả về số lượng lẫn giá trị xuất khẩu, chiếm khoảng một nửa khối lượng hồ tiêu xuất khẩu trên toàn thế giới.

Tái trồng rừng: Những bất trắc và sự bền vững.

25-9-2006

Vai trò của Rừng trên các góc độ tự nhiên-kinh tế và xã hội đều rất quan trọng. Bởi vậy, tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, vấn đề khôi phục, bảo vệ và phát triển rừng trở thành mục tiêu của nhiều chương trình và dự án quốc gia.

Cần một hướng đi mới cho giám sát cung cà phê (Kỳ II)

22-9-2006

Nhận thấy những đặc tính ưu việt của phương pháp này, nhóm chuyên gia Pháp, Tây Ban Nha và Bộ Nông nghiệp Mỹ đã hợp tác phát triển công nghệ này cho cây cà phê ở Việt Nam từ năm 2001. Năm 2005, nhóm chuyên gia Pháp đã hỗ trợ Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển NN NT triển khai phương pháp này cho cây cà phê tại tỉnh Đắc Lắc.

SWOT cho phân tích ngành hàng – Trường hợp ngành hồ tiêu (Kỳ I).

21-9-2006

1. Mô hình phân tích SWOT.

Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm bắt và ra quyết định trong mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh nào. SWOT cung cấp một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định hướng của một công ty hay của một đề án kinh doanh.

Cần một hướng đi mới cho giám sát cung cà phê (Kỳ I).

20-9-2006

Năm 1998, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về lượng cà phê Robusta xuất khẩu.  Kể từ đó, Việt Nam liên tục trở thành đối tác xuất khẩu cà phê quan trọng trên thế giới, mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước, cải thiện đời sống của hàng triệu người dân, tạo hàng trăm nghìn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho người trồng, chế biến và buôn bán cà phê.

Đồng bằng sông Cửu Long : Đê bao làm nghèo vựa lúa.

19-9-2006

Đến năm 2001, Chợ Mới nổi lên như một vùng trồng rau màu nổi tiếng khắp các tỉnh miền Tây, trong khi ở những nơi nước ngập trắng đồng. Cũng chính nhờ đê bao ngăn lũ nên người dân có điều kiện khai thác triệt để đất canh tác

Bộ trưởng Cao Đức Phát làm việc với Viện CS&CL PTNNNT.

15-9-2006

Chiều ngày 14/9/2006, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát đã có buổi làm việc với Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (Viện CS&CL) tại trụ sở số 6 Nguyễn Công Trứ, Hà Nội.

Chuyển giao công nghệ cho phát triển nông nghiệp.

14-9-2006

Nông nghiệp, nông thôn là những khu vực kinh tế-xã hội rộng lớn, đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển của đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn có tính chất đa ngành, đòi hỏi cần có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của nhiều thành phần và lực lượng trong xã hội, trong đó đặc biệt là vai trò của các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học.

Thị trường hạt điều - đối mặt với những khó khăn.

13-9-2006

Hiện nay, Việt Nam đang nổi lên để trở thành nhà xuất khẩu hạt điều lớn nhất thế giới thay thế Ấn Độ. Tuy nhiên, trong 2 năm trở lại đây, ngành điều gặp nhiều khó khăn và rơi vào tình trạng thua lỗ nặng. Ngành điều Việt Nam đang phải đối mặt với những bất lợi do sự mất ổn định về giá cả.

Nông nghiệp và đói nghèo thời "hậu" WTO

12-9-2006

Mặc dù đã thu được những thắng lợi to lớn trong việc giảm đói nghèo, VN vẫn là một quốc gia có thu nhập thấp với GDP trên đầu người đạt khoảng 600USD. Đại bộ phận nhân dân có mức thu nhập chỉ trên ngưỡng nghèo chút ít, nên rất dễ bị tái nghèo nếu có những chấn động kinh tế từ bên ngoài.

Hội nghị tổng kết Chương trình Bảo quản chế biến Nông Lâm Sản - Giai đoạn 2002-2005

11-9-2006

Báo cáo tổng kết chương trình Bảo quản và chế biến nông lâm sản do Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tổ chức đã diễn ra tại Hà Nội vào ngày 7/9/2006.  Tham dự hội nghị có Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNNT Bùi Bá Hồng, đại diện các Cục, Vụ, Viện, Trung tâm nghiên cứu và các Doanh nghiệp liên quan.

Chính sách nông nghiệp chung châu Âu (Kỳ II)

8-9-2006

1992: Bước ngoặt đầu tiên

 “Cải cách Mac Sharry”, tên của uỷ viên người Ailen phụ trách nông nghiệp, có hiệu lực từ 1/1/1993. Sự thay đổi cơ bản mà cải cách này mang lại là chuyển đổi từ hệ thống được thiết lập chủ yếu trên giá cả sang hệ thống dựa trên việc hỗ trợ thu nhập cho người sản xuất được thực hiện đồng thời qua giá cả và trợ cấp trực tiếp.

©2025 Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường
Số 16 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội
Tel: 04-39722067, Fax: 84-4-39711062, Email: vienclcs@mae.gov.vn