ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Vấn đề liên kết sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường trong xây dựng các quy hoạch vùng

Ngày đăng: 06 | 04 | 2023

Để có thể phát huy và thực thi các chiến lược, chính sách một cách hiệu quả, cần phải có những quy hoạch, kế hoạch cụ thể. Luật Quy hoạch 2017 được ban hành nhằm đảm bảo tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch, hài hòa lợi ích của quốc gia, các vùng, các địa phương và lợi ích của người dân; đảm bảo tính khoa học, khả thi, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước, tính khách quan, công khai, minh bạch, tính bảo tồn.

          Bối cảnh

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 cần có sự phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu. Một số văn bản quan trọng như Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 về Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 45/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 8/1/2014 về Phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050... Các văn bản đã đề ra các chính sách, chương trình toàn diện, trải rộng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội (KTXH), bảo vệ môi trường (BVMT), biến đổi khí hậu (BĐKH) ...Đồng thời với tầm nhìn mới, định hướng chiến lược, các giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế đã được xác định là trọng tâm để phát triển bền vững các vùng trên cả nước.

Để có thể phát huy và thực thi các chiến lược, chính sách một cách hiệu quả, cần phải có những quy hoạch, kế hoạch cụ thể. Luật Quy hoạch 2017 được ban hành nhằm đảm bảo tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch, hài hòa lợi ích của quốc gia, các vùng, các địa phương và lợi ích của người dân; đảm bảo tính khoa học, khả thi, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước, tính khách quan, công khai, minh bạch, tính bảo tồn. Điều 3 của Luật Quy hoạch nêu rõ “Quy hoạch vùng là quy hoạch cụ thể hóa quy hoạch tổng thể quốc gia ở cấp vùng về không gian các hoạt động KTXH, quốc phòng, an ninh, hệ thống đô thị và phân bố dân cư nông thôn, xây dựng vùng liên tỉnh, kết cấu hạ tầng, nguồn nước lưu vực sông, sử dụng tài nguyên và BVMT trên cơ sở kết nối các tỉnh”. Cụ thể hơn Điều 26 của Luật quy định “Nội dung quy hoạch vùng xác định phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động KTXH, quốc phòng, an ninh, BVMT có tính liên ngành, liên vùng và liên tỉnh”. Có thể nói, việc liên kết sử dụng tài nguyên, BVMT trong xây dựng các quy hoạch vùng theo Luật Quy hoạch năm 2017 của Việt Nam đang là nhu cầu có tính cấp thiết thời sự, đáp ứng nhu cầu thực tiễn về phát triển.

Thực trạng liên kết trong sử dụng tài nguyên, BVMT vùng

Các quy định, công cụ, biện pháp, mô hình liên kết, hợp tác trong sử dụng tài nguyên và BVMT như: đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường của các chương trình, dự án khai thác, sử dụng tài nguyên liên tỉnh và ở các vùng kinh tế; phòng ngừa, kiểm soát, BVMT  lưu vực sông liên tỉnh; phòng phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; phối hợp phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường biển; phân bổ không gian sử dụng đất; bảo vệ tài nguyên rừng ở các khu vực đầu nguồn, bảo tồn đa dạng sinh học... đã được thực hiện và đẩy mạnh. Một số địa phương, vùng đã chủ động hợp tác trong công tác BVMT, kiểm soát ô nhiễm lưu vực sông, khai thác sử dụng các nguồn nước liên tỉnh, tham gia tích cực trong bảo vệ và phát triển hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, BVMT trong khai thác và chế biến khoáng sản,… góp phần phòng ngừa, hạn chế sự gia tăng ô nhiễm, suy thoái tài nguyên, giảm tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu trên phạm vi cả nước.

Các quy hoạch phát triển KTXH các vùng, ngành và địa phương đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt vào các năm từ 2009 - 2014 cho thấy hướng liên kết nội vùng và ngoại vùng luôn được lồng ghép trong các định hướng và giải pháp phát triển của từng quy hoạch. Đặc biệt, quy hoạch phát triển các vùng kinh tế trọng điểm (Bắc Bộ, miền Trung, vùng đồng bằng sông Cửu Long, phía Nam) được xác định là cơ sở để tạo sức lan tỏa cho các vùng phát triển theo các tuyến hành lang và vành đai kinh tế, trên cơ sở sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT trong nội vùng và liên vùng.

Thêm vào đó, quy hoạch tổng thể phát triển KTXH các vùng đã khẳng định: định hướng phát triển của vùng phải đảm bảo tính thống nhất với Chiến lược phát triển của cả nước trên cơ sở khai thác, phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng, tăng cường hợp tác phát triển giữa các địa phương trong vùng với cả nước nhằm huy động, sử dụng tốt mọi nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tập trung ưu tiên đầu tư các ngành có tiềm năng, lợi thế, có năng suất lao động và hàm lượng tri thức cao, gắn liền với việc đẩy mạnh liên kết giữa các ngành, thành phần kinh tế và giữa các địa phương. Tạo sự liên kết giữa các đô thị trong vùng và liên vùng hình thành cơ cấu đa trung tâm nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của các tỉnh, thành phố trong vùng theo hướng hình thành chức năng trong quá trình phân công và hợp tác liên vùng, liên tỉnh, thành phố. Đẩy mạnh sự phối hợp gắn kết giữa các địa phương trong và ngoài vùng trong việc thực hiện các chính sách phát triển, trong huy động và phân bổ nguồn lực và vốn đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng; đào tạo, thu hút và tạo việc làm, BVMT, ứng phó với BĐKH, bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước cho vùng.

Kinh nghiệm quốc tế về liên kết sử dụng tài nguyên, BVMTtrong xây dựng quy hoạch vùng

Nhiều quốc gia phát triển trên thế giới đã rất chú trọng đến vấn đề liên kết sử dụng tài nguyên, BVMT trong việc quy hoạch không gian lãnh thổ, quy hoạch vùng, quy hoạch liên kết giữa các vùng đô thị và nông thôn.

Tại Mỹ, trong những năm qua, các luật liên bang khác nhau, chẳng hạn như Đạo luật Nước sạch, Đạo luật Không khí Sạch và Đạo luật Quản lý Vùng ven biển, đã định hình các nỗ lực BVMT trong một vùng. Ngoài ra, nhiều bang đã thành lập một số tổ chức quy hoạch vùng dựa trên địa điểm với mục đích rõ ràng là giải quyết các hệ thống sinh thái độc đáo trong vùng. Thông qua quy hoạch, các cơ quan liên bang thực hiện nhiều chương trình bảo tồn môi trường sống ở cấp quốc gia, vùng và địa phương để duy trì các dịch vụ hệ sinh thái có giá trị vì lợi ích của thế hệ tương lai của người Mỹ. Các chương trình này giúp giữ rừng và đất nông nghiệp trong hoạt động sản xuất, BVMT sống của các loài động vật hoang dã ở mức chất lượng cao, hướng sự phát triển ra xa các khu vực có nguy cơ lũ lụt, bảo tồn các địa điểm di sản văn hóa thiên nhiên.

Tại Liên minh châu Âu (EU), do hỗ trợ tài chính của EU cho di sản văn hóa thiên nhiên và đa dạng sinh học thường bị phân tán trong các hành động riêng lẻ, nên việc hệ thống hóa chúng là điều không thể thiếu. Việc bảo vệ theo định hướng cơ sở cần được kết nối với bảo vệ cảnh quan văn hóa kết hợp với phát triển vùng và BVMT. Điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích quốc gia trong quy hoạch vùng và địa phương. Sự tham gia rộng rãi hơn của người dân và các bên liên quan vào quá trình lập quy hoạch có thể giúp quản lý xung đột giữa phát triển không gian và bảo vệ di sản thiên nhiên, văn hóa, cảnh quan, hướng tới các hệ sinh thái có giá trị, chống lại sự phân mảnh trong phát triển.

Tại một số quốc gia như Phần Lan và Thụy Điển, các mục tiêu quốc gia và vùng sẽ được thể hiện trong các quy hoạch vùng, đây là những quy hoạch duy nhất được đệ trình để phê chuẩn. Quy hoạch được giám sát bởi Trung tâm Môi trường Vùng và được Bộ Môi trường xác nhận. Chuẩn bị và phê duyệt các quy hoạch vùng là nghĩa vụ của các hội đồng vùng (liên minh của các thành phố trực thuộc Trung ương). Đối tượng quy hoạch là toàn bộ vùng hoặc một phần của nó. Mục tiêu cơ bản là quy hoạch vùng thực hiện các hướng dẫn sử dụng đất quốc gia. Bản thân tác động pháp lý của quy hoạch vùng là nó phải được tính đến khi lập kế hoạch, chuẩn bị hoặc sửa đổi các quy hoạch địa phương. Các kế hoạch vùng cũng nên được sử dụng làm kim chỉ nam khi các biện pháp ngành, ví dụ: hạ tầng giao thông phát triển, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, BVMT được thực hiện để tổ chức sử dụng đất. 

dtt

Biểu đồ 1. Quy trình phát triển vùng từ các Hội đồng vùng tại Phần Lan

Nguồn: www.reg.fi

Tại Vương quốc Anh, các chiến lược không gian vùng cung cấp một phương tiện tham gia với các đối tác trong vùng nhằm xác định các ưu tiên và chính sách của vùng về đa dạng sinh học, bảo tồn địa chất, đồng thời cung cấp một khuôn khổ để thực hiện. Lấy ví dụ về chiến lược của tiểu vùng Milton Keynes và South Midlands trong thúc đẩy các tiêu chuẩn cao về môi trường trong thiết kế, quy hoạch và quản lý khu vực tăng trưởng này. Chiến lược này đề ra một cách tiếp cận tổng hợp trong đó hiệu quả tài nguyên, sử dụng năng lượng tái tạo, giảm chất thải và giảm phát thải được xem xét ở giai đoạn đầu cùng với các biện pháp thúc đẩy đa dạng sinh học để giúp tạo ra những môi trường sống hấp dẫn, lành mạnh và an toàn. Trọng tâm của cách tiếp cận này là lập quy hoạch bảo vệ và tăng cường không gian xanh đa chức năng làm cơ sở cho tăng trưởng phát triển.

Tại Trung Quốc, diện tích tự nhiên của các đơn vị hành chính tương đối lớn, việc liên kết địa phương diễn ra còn tương đối khó khăn. Quy hoạch vùng đồng bằng châu thổ sông Châu Giang là một quy hoạch được xây dựng có ý nghĩa to lớn đối với Quảng Đông, Hồng Kông và Macao. Dựa trên các định hướng hợp tác vùng được đề xuất đã nêu trước đó, và có tính đến hoàn cảnh riêng cũng như các vấn đề và mối quan tâm cơ bản gặp phải, quy hoạch này đã đề ra các sáng kiến hợp tác ban đầu trong các lĩnh vực môi trường và sinh thái; phát triển các-bon thấp; văn hóa và đời sống xã hội; kế hoạch không gian; và hệ thống giao thông. Để BVMT hiệu quả, đồng thời giải quyết những thách thức nghiêm trọng đối với việc bảo tồn các khu vực sinh thái trong quá trình phát triển khu vực, ba bên cần có những hành động chung để củng cố và cải thiện các hệ sinh thái của toàn vùng trên cơ sở của các biện pháp hiện có đang được thực hiện để bảo tồn các vùng sinh thái, và bằng cách xem xét các yêu cầu từ các ngành khác nhau. Các sáng kiến hợp tác ban đầu được đề xuất bao gồm: (a) Lập kế hoạch bảo tồn hệ thống sinh thái vùng; (b) Xây dựng quy hoạch bảo tồn cho các khu vực sinh thái nhạy cảm liền kề; (c) Thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu để hợp tác hơn nữa trong việc bảo vệ sinh thái.

Đề xuất một số định hướng đẩy mạnh liên kết sử dụng tài nguyên, BVMT trong xây dựng quy hoạch vùng

Quy hoạch qụốc gia, vùng và tỉnh là một công cụ định hướng của Nhà nước (cả cấp trung ương và địa phương) để phát triển KTXH quốc gia, từng vùng và từng địa phương. Đặc biệt, quy hoạch vùng giai đoạn 2021-2030 phải được coi là công cụ nền tảng buộc các chính quyền địa phương phải liên kết, hợp tác với nhau. Thông qua quy hoạch vùng, các hoạt động liên kết vùng sẽ diễn ra có tổ chức, thực chất, có thứ tự ưu tiên và tầm nhìn dài hạn để cân bằng giữa phát triển KTXH và môi trường. Do vậy, ở cả cấp trung ương và địa phương cần sớm đẩy nhanh tiến độ rà soát, xây dựng và ban hành quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch cấp quốc gia và quy hoạch vùng.

 Nghị định số 37/2019/NĐ-CP ngày 7/5/2019 của Thủ tướng Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch đã ghi rõ trong nội dung quy hoạch vùng có yêu cầu phân tích, đánh giá hiện trạng tài nguyên thiên nhiên, môi trường, liên kết nội vùng, liên kết vùng với khu vực và quốc tế; các nguồn lực của vùng đã và đang được khai thác, các tiềm năng chưa được khai thác. Đồng thời, làm rõ tính đặc thù, vị thế, vai trò của vùng đối với quốc gia. Trong quy hoạch vùng phải nêu được quan điểm và mục tiêu về phát triển vùng, tổ chức không gian phát triển, sử dụng tài nguyên và BVMT trên lãnh thổ vùng trong thời kỳ quy hoạch 10 năm, tầm nhìn từ 20 đến 30 năm. Luật Bảo vệ môi trường 2020, sẽ được áp dụng từ năm 2022 tới đây cũng nêu rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong tổ chức xây dựng nội dung BVMT trong quy hoạch vùng, Nội dung BVMT đó phải phù hợp với quy định của pháp luật về quy hoạch.

Từ thực trạng thực tế và bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới, một số định hướng nhằm tăng cường sự liên kết sử dụng tài nguyên, BVMT trong việc xây dựng các quy hoạch vùng như:

a) Khi thiết kế quy hoạch vùng, nội dung quy hoạch cần thể hiện rõ: không gian các hoạt động khai thác sử dụng tài nguyên và BVMT; xác định trọng tâm liên kết; yêu cầu liên kết; vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan có liên quan, đặc biệt là trách nhiệm của Hội đồng vùng và từng địa phương trong quy hoạch vùng để triển khai trong thực tiễn, đảm bảo mục tiêu kế hoạch đề ra.

b) Quy hoạch vùng phải đảm bảo phù hợp và gắn kết với các quy hoạch ngành quốc gia có liên quan đến lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Cần có cơ chế lồng ghép công tác BVMT, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên của vùng vào các kế hoạch phát triển KTXH.

c) Sau khi quy hoạch vùng được ban hành, cần sớm xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch liên kết khai thác sử dụng tài nguyên, BVMT trong quy hoạch vùng. Chú trọng vấn đề liên kết phát triển kết cấu hạ tầng cấp vùng BVMT, ứng phó BĐKH trong quy hoạch vùng.

d) Chủ động phối hợp xây dựng, thực hiện các giải pháp huy động nguồn lực tài chính, lộ trình triển khai các dự án đầu tư phát triển hạ tâng xử lý môi trường quan trọng có tính chất vùng, liên vùng và phát triển nhân lực trong quy hoạch vùng.

e) Cần có cơ chế chia sẻ, tiếp cận thông tin, trong vùng và liên vùng về công tác sử dụng tài nguyên, BVMT.

f) Tăng cường cơ chế đánh giá, giám sát để đảm bảo quy hoạch vùng được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả.

g) Các bộ, ngành Trung ương và địa phương, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường cần chủ động xây dựng và thống nhất nội dung hoạt động liên kết trung hạn, dài hạn và hoạt động liên kết, phối hợp thường xuyên với các cơ quan có liên quan. Nâng cao hoạt động hợp tác quốc tế, tăng cường tối đa sự tham gia của cộng đồng trong việc xác định các phương hướng khai thác sử dụng tài nguyên và BVMT trong quá trình xây dựng quy hoạch vùng.

Kết luận

Các vấn đề về tài nguyên, môi trường đều có tính chất liên vùng, liên địa phương. Tác động xấu trong việc quản lý, khai thác sử dụng tài nguyên, cũng như các hoạt động KTXH khác gây ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng tới một vùng/địa phương mà phạm vi ảnh hưởng của nó còn lan tỏa tới các vùng/địa phương khác. Có thể nói, muốn giải quyết tốt các vấn đề tài nguyên môi trường có tính liên vùng phải có sự liên kết giữa các bộ, ngành, giữa các cấp chính quyền, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và cộng đồng dân cư. Cần thiết phải có các cơ chế điều phối vùng hiệu quả, có các quy hoạch vùng được xây dựng tốt, trong đó xác định rõ phương hướng về liên kết nhằm khắc phục ô nhiễm, cải thiện, phục hồi môi trường và khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Thêm vào đó, cũng cần có các nghiên cứu chi tiết, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng cơ chế, chính sách liên kết vùng trong khai thác tài nguyên, BVMT, phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn tới.

Đặng Trung Tú, Phạm Thanh Hải, Vũ Đăng Tiếp, Phan Thị Thu Hương, Nguyễn Anh Tuấn

(Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường)

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
  2. Luật Quy hoạch 2017.
  3. Regional Cooperation Plan on Building a Quality Living Area – Consultation Document, 2011.
  4. Nadin, V., et al. Comparative Analysis of Territorial Governance and Spatial Planning Systems in Europe. Applied Research 2016-2018: Final Report, 2018.
  5. Planning for Biodiversity and Geological Conservation – A Guide to Good Practice. London, 2006.
  6. Ohm, Brian W. "Is There a Law of Regional Planning?," Belmont Law Review: V ol. 4 , Article 2, 2017.

NỘI DUNG KHÁC

Đề xuất mô hình kiểm soát rác thải nhựa ra biển tại các xã ven biển tỉnh Thái Bình

19-4-2023

Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, thuộc hạ lưu của đồng bằng châu thổ sông Hồng, có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Mạng lưới sông ngòi này đều ở cuối nguồn không chỉ tiếp nhận toàn bộ chất thải từ đồng ruộng, dân cư, đô thị của tỉnh mà còn tiếp nhận chất thải của các tỉnh từ thượng nguồn sông Hồng và sông Thái Bình gây ô nhiễm vùng ven biển cửa sông. Bên cạnh đó, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng của địa phương đã dẫn tới sự gia tăng đáng kể chất thải nhựa, gây áp lực không nhỏ lên môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hệ sinh thái. Theo IUCN (2020), Thái Bình nằm trong khu vực được ước tính có lượng rác thải rò rỉ mỗi năm từ 1,9-9 tấn/km2/năm, trong đó lượng rác thải nhựa rò rỉ mỗi năm của tỉnh là 8%. Trong khi đó, công tác quản lý chất thải lại chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay. Vì vậy, việc xây dựng mô hình kiểm soát rác thải nhựa ra biển tại các xã ven biển của tỉnh Thái Bình là rất cần thiết, nhằm giảm thiểu ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, bảo vệ sức khỏe con người và hệ sinh thái.

Thử nghiệm áp dụng một số chỉ số sinh học để đánh giá suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định

25-4-2023

Vườn Quốc gia (VQG) Xuân Thủy là một vùng đất ngập nước tiêu biểu cho vùng cửa sông ven biển Châu thổ sông Hồng, cung cấp nhiều giá trị đa dạng sinh học và hỗ trợ sinh kế cho người dân địa phương thông qua khai thác và nuôi trồng thủy hải sản, phát triển du lịch, duy trì cảnh quan thiên nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy tại VQG Xuân Thủy, đã xác định được một số nhóm chỉ thị cho việc đánh giá suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước theo 04 nhóm chỉ số: chỉ số đa dạng sinh học ShannonWeiner và chỉ số phong phú loài Margalef; Chỉ số tổ hợp sinh học cá (IBI) và hệ thống thang điểm BMWPVIET đối với nhóm động vật KXS cỡ lớn và nhóm côn trùng nước. Chỉ số phong phú Margalef (d) vào mùa mưa cao, mức ô nhiễm của môi trường nước thuộc loại không nhiễm bẩn, chỉ số đa dạng sinh học Shannon-Weiner (H’) tại một số điểm tại cồn Lu có chất lượng môi trường từ nhiễm bẩn đến nhiễm bẩn nhẹ, thể hiện có sự suy thoái của hệ sinh thái đất ngập nước. Theo hệ thống thang điểm BMWPVIET thì chỉ số ASPT = 5,07 thể hiện nước ô nhiễm vừa và sự có sự suy thoái nhẹ của hệ sinh thái đất ngập nước. Theo chỉ số tổ hợp sinh học cá (IBI) với hệ thống thang điểm tính 12 chỉ số của Karr. (1981) cho thấy cấu trúc dinh dưỡng có dấu hiệu bị ức chế, thể hiện có sự suy thoái nhẹ của hệ sinh thái nước tại VQG Xuân Thủy. Đặc biệt là chỉ số tổ hợp sinh học cá đã cho thấy sự giàu có thành phần loài dưới mức mong đợi, đặc biệt là mất đi những loài nhạy cảm nhất với môi trường thay đổi.

Một số đề xuất xây dựng, hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường làng nghề

28-4-2023

Theo Hiệp hội làng nghề Việt Nam, hiện các làng nghề phát triển đang theo hình thức tự phát. Đây được coi là nguyên nhân chính khiến tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề đang ở mức báo động, ảnh hưởng đến môi trường và đời sống người dân. Khoản 1 Điều 56 Luật BVMT năm 2020 quy định, làng nghề phải có phương án BVMT và UBND cấp xã có trách nhiệm lập, triển khai thực hiện phương án BVMT cho làng nghề trên địa bàn. Việc hoàn thiện cơ chế huy động các nguồn lực tài chính để xây dựng, thực hiện phương án BVMT làng nghề nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Doanh nghiệp tiếp cận mô hình kinh tế tuần hoàn để giảm thiểu chất thải

4-5-2023

   Tiếp cận mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) dựa vào lợi ích kinh tế để giải quyết ba vấn đề chính đối với chất thải, đó là: (i) Giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên đầu vào; (ii) kéo dài vòng đời sản phẩm; (iii) giảm thiểu tối đa chất thải ra môi trường. Như vậy, đối với chất thải nếu hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là những ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu thô từ tài nguyên thiên nhiên đầu vào và thải trực tiếp ra môi trường theo mô hình kinh tế tuyến tính (KTTT) (line economy-LE) trước đây chuyển sang mô hình KTTH (circular economy-CE) sẽ đạt hiệu quả cao không chỉ về kinh tế mà còn BVMT thông qua giảm khai thác tài nguyên đầu vào và hạn chế tối đa chất thải ra môi trường. Tuy nhiên, để chuyển đổi từ mô hình KTTT sang mô hình KTTH, bên cạnh những thuận lợi, doanh nghiệp (DN) sẽ gặp những khó khăn nhất định.

Các vấn đề môi trường của Việt Nam trong bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2022

8-5-2023

Trong kết quả công bố Chỉ số Đổi mới Sáng tạo Toàn cầu (Global Innovation Index, gọi tắt là GII) năm 2022, Việt Nam xếp hạng 48/132 quốc gia và được ghi nhận trong nhóm các quốc gia đạt được những tiến bộ lớn nhất trong thập kỷ. Tuy nhiên, kết quả xếp hạng các vấn đề về môi trường trong GII lại xếp trong nhóm các quốc gia đạt kết quả thấp so với trình độ phát triển của đất nước. Bài viết này phân tích phương pháp tính toán và kết quả đánh giá của GII cho Việt Nam về các vấn đề môi trường. Từ đó nhằm đưa ra một số đề xuất để cải thiện chỉ số trong thời gian tới.

Khung pháp lý thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh trong pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam

10-5-2023

 Phát triển thị trường tín dụng xanh (TDX), trái phiếu xanh (TPX) đang là xu hướng nổi lên mạnh mẽ ở phạm vi toàn cầu, với sự tham gia ngày càng nhiều các quốc gia phát triển cũng như tổ chức tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)... [1] Hai kênh huy động vốn này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là các mục tiêu về môi trường, khí hậu.

Áp dụng các công cụ hỗ trợ phân tích đánh đổi trong xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường

11-5-2023

 Trong bối cảnh hiện nay, khi những tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), ô nhiễm môi trường tác động tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), bài toán đặt ra đối với mỗi một quốc gia là cần có những quyết định phù hợp, bảo đảm yêu cầu về phát triển bền vững. Đối mặt với những thách thức đó, trong quá trình lập quy hoạch, việc tìm kiếm một giải pháp tối ưu tuyệt đối là không thực tế, đặc biệt là khi các tiêu chí về ưu tiên kinh tế hay môi trường có sự mâu thuẫn với nhau.

Kinh nghiệm quốc tế về thống kê giá trị của tài nguyên đất vào hệ thống tài khoản quốc gia và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

12-5-2023

Bài viết trình bày kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới xây dựng khung hạch toán tích hợp kinh tế - môi trường (EEA) cho những loại tài nguyên chính, trong đó có đất đai nhằm thống kê đầy đủ các giá trị của đất về mặt không gian, chất lượng và giá trị về mặt tiền tệ. Từ đó, bài báo cũng đưa ra một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam về thống kê giá trị của tài nguyên đất vào hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).

Một số vấn đề lý luận về xây dựng định hướng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngành tài nguyên và môi trường của Việt Nam

15-5-2023

Việt Nam vừa ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030. Trước khi ban hành Chiến lược, việc tổng kết và đánh giá kết quả Chiến lược khoa học và công nghệ giai đoạn trước được thực hiện và rút kinh nghiệm, đồng thời đưa ra định hướng cho giai đoạn tiếp theo. Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia vừa là định hướng vừa là tổng hợp từ các chiến lược khoa học và công nghệ ngành, lĩnh vực. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang tiến hành tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ trong ngành tài nguyên và môi trường giai đoạn 2011-2020 và xây dựng định hướng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của ngành giai đoạn 2021-2030.

Đề xuất Bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường của việc sử dụng đất ven biển theo hướng phát triển bền vững

16-5-2023

Trên thế giới, bền vững môi trường ngày càng được chú trọng trong chính sách phát triển của các nước. Các mục tiêu bền vững chỉ đạt được khi có những chính sách phát triển phù hợp và việc thực hiện hiệu quả các chính sách quản lý môi trường và tài nguyên. Tuy nhiên công tác hoạch định chính sách, đánh giá hiệu quả thực hiện các chính sách này trong phạm vi một quốc gia, hay so sánh trong khu vực, hay hẹp hơn như so sánh giữa các vùng, tỉnh trong một quốc gia, đòi hỏi cách thức tiếp cận khoa học, có căn cứ, là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách, các cấp quản lý gặp khó khăn.

Thực trạng và chính sách phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực rác thải điện tử

19-5-2023

Sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đi cùng với sự đổi mới sáng tạo công nghệ đã khiến việc sản xuất các thiết bị điện, điện tử phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội giúp cho đời sống người dân ngày càng được cải thiện, tầng lớp trung lưu, thượng lưu cũng gia tăng dẫn đến nhu cầu thay đổi các sản phẩm điện, điện tử ngày càng lớn. Điều này dẫn đến tuổi đời ngày càng ngắn của các sản phẩm điện, điện tử, có nghĩa là có nhiều rác thải điện tử được sinh ra hơn trong nền văn hóa “nâng cấp và thải bỏ” ngày nay. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi mà lượng rác thải điện tử trong nước ngày càng tăng nhanh tạo ra những áp lực đối với công tác xử lý loại chất thải đặc thù này. Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra những quy định về phát triển kinh tế tuần hoàn (KTTH), về trách nhiệm tái chế, xử lý các sản phẩm thải bỏ trong đó có rác thải điện tử. Bài viết sau đây tổng quan thực trạng về rác thải điện tử ở Việt Nam, đánh giá các khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý từ đó đưa ra các đề xuất để thúc đẩy phát triển mô hình KTTH trong lĩnh vực rác thải điện tử.

Huy động nguồn lực thực hiện NDC: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

19-5-2023

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trở thành thách thức chung của toàn nhân loại. Nỗ lực để hạn chế các nguyên nhân gây ra BĐKH là trách nhiệm của mỗi quốc gia, lĩnh vực và cá nhân. Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực để chủ động ứng phó với BĐKH thông qua việc triển khai đồng thời hoạt động thích ứng, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK). Quyết tâm, cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế chống lại BĐKH được thể hiện thông qua Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2020 và đệ trình Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC).