TIN TỨC-SỰ KIỆN

Chuyển đổi xanh Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê khí nhà kính

Ngày đăng: 27 | 08 | 2024

Nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tại Hải Phòng nắm bắt được các quy định về kiểm kê cũng như trách nhiệm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK); có khả năng thực thi bước đầu các yêu cầu kỹ thuật mới theo luật pháp trong nước và quốc tế, ngày 15/8/2024, tại Hải Phòng, Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT) - Ủy ban Tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia, Viện Chiến lược và công nghệ Logistics (VLIST), Hiệp hội Logistics Hải Phòng (HPLA), Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hải Phòng (HPSME) và Tạp chí Môi trường phối hợp tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi xanh Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê KNK”. Tại Hội thảo, các đại biểu được chia sẻ nhiều thông tin hữu ích về kinh nghiệm áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong kiểm kê KNK, trung hòa các-bon; các phương pháp trung hòa các-bon đã và đang được triển khai; những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp trong thực hiện kiểm kê KNK... Qua đó giúp các doanh nghiệp tại Hải Phòng hiểu được yêu cầu và thực tiễn về chuyển đổi xanh, Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê KNK. Hội thảo cũng thảo luận sâu rộng các nội dung liên quan đến công nghệ quan trắc, giám sát và kiểm kê KNK, từ đó mang đến cái nhìn toàn diện về tình hình phát thải trong các ngành công nghiệp, năng lượng, nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Đồng thời, đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển bền vững các ngành kinh tế chủ lực của địa phương, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh, hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

1 f8cb0498
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Tổng biên tập Tạp chí Môi trường TS. Nguyễn Trung Thắng phát biểu tại Hội thảo

Phát biểu tại Hội thảo, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Tổng biên tập Tạp chí Môi trường TS. Nguyễn Trung Thắng cho biết, tại Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21), gần 200 quốc gia đã đồng thuận thông qua Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Thỏa thuận đặt ra mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu vào cuối thế kỷ 21 ở mức dưới 2oC, theo đuổi nỗ lực nhằm hạn chế mức tăng dưới 1,5oC so với thời kỳ tiền công nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, Thỏa thuận yêu cầu tất cả các nước xây dựng, công bố và thực hiện cam kết giảm phát thải KNK trong Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC). Đến nay, sau hơn 8 năm kể từ ngày Thỏa thuận Paris được thông qua, mặc dù các quốc gia đã rất nỗ lực trong việc thực hiện trách nhiệm chung toàn cầu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, tuy nhiên tiến trình đạt mục tiêu của Thỏa thuận đang gặp nhiều thách thức. Là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia giảm phát thải KNK. Tại Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, giảm còn 30% phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với năm 2020, ngăn chặn triệt để nạn phá rừng vào năm 2030.

Luật BVMT năm 2020 và Nghị định số 06/2022/NĐ-CP đã ban hành quy định trách nhiệm phát thải KNK đối với các Bộ, ngành và doanh nghiệp gồm: (1) Trách nhiệm phải thực hiện kiểm kê KNK; (2) Trách nhiệm phải xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK; (3) Trách nhiệm phải xây dựng và vận hành thị trường các-bon. Hiện nay, thị trường các-bon đang được xây dựng và vận hành theo 3 giai đoạn: Đến cuối năm 2024, hoàn thiện hành lang pháp lý và sàn giao dịch thị trường các-bon; Từ năm 2025-2027, thực hiện thí điểm vận hành thị trường các-bon; Từ năm 2028, chính thức đi vào vận hành thị trường các-bon trong nước. Các văn bản trên là hành lang pháp lý quan trọng, giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn hoạt động kiểm kê và xây dựng thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK.

2 1407f830
Giám đốc Trung tâm Chứng nhận phù hợp Trần Quốc Dũng chia sẻ tại Hội thảo

Chia sẻ về vấn đề này, Giám đốc Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT) Trần Quốc Dũng cho rằng, để giảm phát thải KNK, hướng tới trung hòa các-bon và Net zero có rất nhiều việc phải làm như chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi năng lượng... nhưng một trong những việc đầu tiên là phải kiểm kê KNK toàn diện, đầy đủ, chính xác. Đây là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo độ tin cậy, sự công bằng, làm cơ sở cho việc tham gia vào các cơ chế trao đổi tín chỉ các-bon. Hiện nay, trên thế giới đã có các tiêu chuẩn quốc tế về kiểm kê KNK như bộ tiêu chuẩn ISO 14064 hoặc tiêu chuẩn ISO 14067 về định lượng vết các-bon, ISO 14068 về trung hòa các-bon. Việc áp dụng các tiêu chuẩn như vậy sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo tính chính xác cho các báo cáo phát thải, báo cáo giảm nhẹ phát thải, báo cáo định lượng vết các-bon... do tiêu chuẩn này bao quát tất cả các nguồn phát thải trực tiếp và gián tiếp.

Về các cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê và giảm phát thải, Chuyên gia đánh giá trưởng - Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT) Nguyễn Tuấn Cường cho biết, ngày 18/1/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ban hành danh mục 1.902 cơ sở phát thải KNK lớn (từ 3.000 tấn CO2tđ trở lên, tiêu thụ 1.000 TOE trở lên), thuộc 4 ngành, lĩnh vực (Công Thương, Giao thông vận tải, Xây dựng, Tài nguyên và môi trường) phải thực hiện kiểm kê và giảm phát thải KNK. Trong đó, TP. Hải Phòng có một số cơ sở phải thực hiện kiểm kê như Xi măng Chinfon tiêu thụ năng lượng 303.868 TOE; Xi măng Hải Phòng tiêu thụ 141.449 TOE; Công ty Cổ phần nhiệt điện Hải Phòng tiêu thụ 1.717.503 TOE…

4 d1199a56
Quang cảnh Hội thảo

Theo Tạp chí Môi trường

NỘI DUNG KHÁC

Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật)

27-8-2024

Ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg. Thực hiện Luật BVMT năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương xây dựng danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và được cập nhật 2 năm một lần. Thực hiện quy định nêu trên, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg. Theo đó, các lĩnh vực phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm: năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, các quá trình công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, chất thải. Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm có 1.912 cơ sở, thuộc các ngành: công thương, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên và môi trường.

Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon

10-9-2024

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch số 09/KH-BTNMT Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon nhằm thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ; nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định Kế hoạch nhằm mục đích triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Chỉ thị số 13/CT-TTg, trong đó cụ thể hóa các nội dung, nhiệm vụ cho đơn vị có liên quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đồng thời nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam; về quản lý tín chỉ các-bon, phương thức tạo tín chỉ các-bon, phát triển thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon thế giới.

Châu Phi tăng cường hành động phối hợp: Biến khủng hoảng môi trường thành cơ hội phát triển

10-9-2024

Hội nghị Bộ trưởng châu Phi về Môi trường tuần này có thể là cơ hội cuối cùng để tất cả các bộ trưởng môi trường châu Phi tập trung và thống nhất các chính sách và hành động trước 3 hội nghị toàn cầu quan trọng về đa dạng sinh học, khí hậu và sa mạc hóa vào cuối năm nay. Tác động của ba cuộc khủng hoảng hành tinh gồm biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm đang làm tổn hại đến cảnh quan của châu Phi, làm cạn kiệt các đại dương và nguồn nước ngọt của châu lục này, đồng thời khiến tình trạng ô nhiễm không khí đô thị lên mức nguy hiểm. Một số tác động lan rộng của ba cuộc khủng hoảng hành tinh có thể là tác động tàn phá nhất: Châu Phi là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do sa mạc hóa và suy thoái đất, với khoảng 45% diện tích đất bị ảnh hưởng. Riêng ở vùng Sừng châu Phi và Sahel, suy thoái đất đã gây ra tình trạng thiếu lương thực cho hơn 23 triệu người. Chỉ tính riêng tháng trước, hơn 700.000 người đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Trung và Tây Phi, và hàng chục triệu người ở miền Nam châu Phi đang phải đối mặt với hạn hán.

Nhiên liệu ethanol - đóng góp quan trọng trong hành trình chuyển đổi “xanh”

10-9-2024

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc chuyển sang sử dụng nhiên liệu ethanol đóng góp tích cực trong hành trình này. Với gần 100 triệu dân và khoảng 79 triệu phương tiện (73 triệu xe máy và hơn 6 triệu ô tô), việc chuyển sang các nguồn nhiên liệu bền vững như xăng ethanol là cần thiết để phát triển hệ thống giao thông xanh giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050. Thực tế, chỉ riêng năm 2023, việc pha trộn ethanol vào xăng đã giúp giảm 56,5 triệu tấn khí thải nhà kính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Con số này tương đương với việc loại bỏ 12 triệu xe ô tô khỏi đường phố mỗi năm; lượng khí thải hàng năm của 15 nhà máy điện than; hoặc thậm chí tương đương với lượng khí thải từ 325.000 chuyến bay khứ hồi từ Los Angeles đến Thành phố New York. Theo nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ethanol sản xuất từ các nguyên liệu nông nghiệp có thể giảm lượng khí thải nhà kính lên đến 80%, tùy thuộc vào nguyên liệu sử dụng. Một tương lai xanh mà ở đó ethanol trở thành nhiên liệu chính cho động cơ là hoàn toàn có thể.

Đề xuất chính sách cho hệ thống pin lưu trữ

20-9-2024

Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) vừa đưa ra kết quả một số nghiên cứu về hệ thống lưu trữ điện năng ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của hệ thống pin lưu trữ (BESS) nhằm đảo bảo các nguồn năng lượng tái tạo phát triển ổn định. Nghiên cứu của Viện Năng lượng đưa ra tham khảo về hành lang pháp lý và mức độ áp dụng BESS ở một số nước như Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ. Các nước này đã chuẩn bị sẵn hành lang pháp lý và các quy định kỹ thuật để BESS tham gia vào hệ thống điện với vai trò cung cấp công suất đỉnh, cung cấp dịch vụ hỗ trợ. Ở cấp độ dự án là kết hợp với điện mặt trời, hay điện gió để cung cấp điện ổn định hơn với giá thành cạnh tranh. Tại Việt Nam, Viện Năng lượng tính toán mô phỏng cho hệ thống thí điểm 50 MW pin lưu trữ dự định đầu tư tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Vào mùa khô, BESS sẽ phải hoạt động nạp/xả 3 lần 1 tuần. Vào mùa mưa, khi nguồn nước thủy điện dồi dào, thủy điện đóng vai trò phủ đỉnh và ổn định tần số nên BESS chỉ phải huy động 1 lần trong 1 tuần.

Huy động vốn đầu tư chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh thực hiện chuyển dịch năng lượng, trọng tâm là chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Tổng vốn đầu tư cho nguồn, lưới điện truyền tải giai đoạn 2021-2030 trong Quy hoạch điện VIII khoảng 134,7 tỷ USD và đây là một thách thức rất lớn. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch điện VIII) đề ra mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2030. Tương ứng, tổng công suất các nhà máy điện phải đạt 150.489 MW và điện thương phẩm khoảng 505,2 tỷ kWh. Ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD (trung bình 13,5 tỷ USD/năm). Trong đó, đầu tư cho nguồn điện khoảng 119,8 tỷ USD (trung bình 12 tỷ USD/năm), lưới điện truyền tải khoảng 14,9 tỷ USD (trung bình 1,5 tỷ USD/năm).

Việt Nam nỗ lực triển khai đồng bộ giải pháp chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Chuyển dịch năng lượng có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, chuyển đổi nền kinh tế theo hướng xanh và tác động đến tất cả các ngành liên quan đến sử dụng năng lượng. Việt Nam đang chú trọng chuyển dịch cả từ phía nguồn cung và phía sử dụng năng lượng, nhằm tạo tác động cộng hưởng và thúc đẩy quá trình diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp ngày càng cạn kiệt, Việt Nam vừa phải đảm bảo an ninh năng lượng vừa phải đảm bảo đáp ứng các cam kết quốc tế về hạn chế những nguồn điện gây phát thải CO2. Nhìn về dài hạn, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch”.

Các Kịch bản phát triển giao thông theo hướng Net Zero

20-9-2024

Với mục tiêu xây dựng kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) đối với 5 lĩnh vực: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, đường biển ven bờ và hàng không, GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu và đưa ra kịch bản hướng tới phát thải ròng về “0” trong ngành Giao thông vận tải (GTVT) tại Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2050. Theo nghiên cứu, trong năm 2021, ngành vận tải có khoảng 94.000 triệu lượt luân chuyển hành khách/km, tương đương với việc thải ra 188.300 triệu tấn carbon/km ra môi trường và hiện vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. Việc phát thải phụ thuộc chủ yếu vào nhiên liệu hoá thạch >95% nhu cầu năng lượng, trong đó, ngành giao thông vận tải (GTVT) tiêu thụ năng lượng đứng vị trí thứ 2 (16,5%), chỉ sau công nghiệp (54,1%), qua việc tiêu thụ năng lượng từ các sản phẩm than và dầu. Thời gian qua, Việt Nam đã và đang hướng đến mục tiêu thực hiện các kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) ngành GTVT đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0”, trong đó, các kịch bản đều hướng tới nguyên tắc chung: Phù hợp, nhất quán với mục tiêu và định hướng của chính sách; phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ năng lượng và phương tiện; tích hợp các giải pháp giảm thiểu khác trên cơ sở tối ưu chi phí.

Chính sách liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường có hiệu lực từ tháng 9/2024

23-9-2024

Từ tháng 9/2024, hàng loạt các chính sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ; quản lý và sử dụng tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường và hỗ trợ chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường sẽ bắt đầu có hiệu lực.

ISPONRE làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (Economic Research Institute for ASEAN and East Asia - ERIA)

25-9-2024

Ngày 23/9/2024, Phó Viện trưởng Nguyễn Trung Thắng cùng một số cán bộ của Viện đã có buổi làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA). Về phía ERIA có Ông Michikazu KOJIMA - Giám đốc dự án của ERIA cùng một số cán bộ đại diện phòng ban của Viện. ERIA là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi thỏa thuận chính thức giữa 16 lãnh đạo đứng đầu các chính phủ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần thứ 3 tại Singapore vào ngày 21 tháng 11 năm 2007. Trụ sở của ERIA đặt tại Indonesia dựa trên Thỏa thuận giữa Chính phủ Indonesia và ERIA vào ngày 13 và 14 tháng 10 năm 2013 thông qua Nghị định của Tổng thống số 56 ngày 27 tháng 6 năm 2016. ERIA thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phân tích chính sách và cung cấp các khuyến nghị về chính sách nhằm góp phần xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu rộng và phát triển bền vững ở Đông Á, đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Các lĩnh vực nghiên cứu của ERIA bao gồm thương mại và đầu tư, toàn cầu hóa, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, năng lượng và môi trường.

Tương lai viễn thám trong kỷ nguyên số

7-10-2024

Chúng ta đang sống trong thời kỳ kỷ nguyên số gắn liền với những đột phá về công nghệ, trong đó công nghệ viễn thám gắn liền với sự phát triển công nghệ thông tin, đóng vai trò là công nghệ cốt lõi được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tương lai, xu hướng dữ liệu viễn thám đã trở nên phổ biến và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cả các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Nhu cầu dữ liệu viễn thám không ngừng gia tăng và ngày càng có xu hướng tích hợp các chủng loại khác nhau, bao gồm cả dữ liệu viễn thám thu thập từ các vệ tinh quan trắc trái đất, ảnh hàng không, ảnh chụp từ thiết bị bay không người lái và các dữ liệu đo đạc, quan trắc trên mặt đất. Cùng với đó, nguồn cung cấp dữ liệu viễn thám cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn từ các loại ảnh độ phân giải thấp như MODIS, VIIRS, OceanSat, độ phân giải trung bình như Landsat 8, Sentinel 1, 2 đến các loại ảnh độ phân giải cao và siêu cao như LISS-IV, SPOT 6/7, Planet Scope, Pleaides, KompSat, WorldView.

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng nằm trong danh mục thống kê quốc gia về biển, hải đảo

7-10-2024

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được đưa vào dự thảo Thông tư quy định Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và Bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Thông tư quy định bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Theo dự thảo, nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng gồm các chỉ tiêu: Số lượng giấy phép nhận chìm ở biển được cấp; số vụ, số lượng dầu tràn và hóa chất rò rỉ trên biển, diện tích bị ảnh hưởng; tỷ lệ khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững; số khu, diện tích và tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn biển; diện tích rừng ngập mặn ven biển. Lộ trình dự kiến có thể thực hiện ngay từ năm 2024 do đã có sẵn hoặc có nguồn thông tin để tính toán, tổng hợp.