TIN TỨC-SỰ KIỆN

Huy động vốn đầu tư chuyển đổi năng lượng

Ngày đăng: 20 | 09 | 2024

Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh thực hiện chuyển dịch năng lượng, trọng tâm là chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Tổng vốn đầu tư cho nguồn, lưới điện truyền tải giai đoạn 2021-2030 trong Quy hoạch điện VIII khoảng 134,7 tỷ USD và đây là một thách thức rất lớn. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch điện VIII) đề ra mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2030. Tương ứng, tổng công suất các nhà máy điện phải đạt 150.489 MW và điện thương phẩm khoảng 505,2 tỷ kWh. Ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD (trung bình 13,5 tỷ USD/năm). Trong đó, đầu tư cho nguồn điện khoảng 119,8 tỷ USD (trung bình 12 tỷ USD/năm), lưới điện truyền tải khoảng 14,9 tỷ USD (trung bình 1,5 tỷ USD/năm).

Thách thức từ nhu cầu vốn khổng lồ

Trên thực tế, tổng số vốn đầu tư từ 2021 đến tháng 5/2024 ước đạt khoảng 29,8 tỷ USD - chỉ đạt 63% so với dự kiến thực hiện vốn đầu tư hàng năm trong Quy hoạch điện VIII. Cụ thể, khối doanh nghiệp nhà nước 16,9 tỷ USD (gồm giá trị vốn đầu tư công trình điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), dự án điện khí thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)); khối tư nhân cho điện gió và điện mặt trời khoảng 8,1 USD; cùng với 3 dự án điện than lớn đầu tư theo hình thức BOT khoảng 4,8 tỷ USD (nhà máy Nghi Sơn vận hành tháng 7/2022, Vân Phong vận hành tháng 3/2024 và Vũng Áng 2 dự kiến tháng 6/2025).

Với quỹ thời gian còn lại chỉ còn khoảng hơn 6 năm mà phải thực hiện khối lượng với mức độ huy động vốn hàng năm đạt hơn 16 tỷ USD, cho thấy áp lực rất lớn để thực hiện Quy hoạch.

Vấn đề huy động vốn đầu tư cho lưới truyền tải tuy lớn, chủ yếu thuộc trách nhiệm Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT). Đơn vị này có thể vay vốn đầu tư các dự án lưới truyền tải thông thường. Khó khăn nằm ở huy động vốn cho các đường dây nhằm thu gom, tích hợp nguồn năng lượng tái tạo, thường có hệ số khai thác công suất thấp và khả năng hoàn vốn chậm hơn.

Nhưng khó khăn lớn nhất chủ yếu thuộc về khả năng huy động và tiến độ vốn đầu tư cho các dự án nguồn điện cần thực hiện từ nửa năm 2024 đến hết năm 2030.

5bai2824
Các dự án năng lượng tái tạo đang chờ các chính sách khuyến khích đầu tư cụ thể

Giảm dần thị phần vốn nhà nước

Đến năm 2023, trong quy mô tổng công suất nguồn điện, thành phần doanh nghiệp nhà nước (EVN, PVN, TKV) còn chiếm 48%. Mới xu thế thị phần nguồn điện thuộc EVN ngày càng giảm đi, nguồn vốn đầu tư thực hiện Quy hoạch điện VIII sẽ chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân trong, hoặc ngoài nước thực hiện. Điểm khác biệt của các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: Chỉ đầu tư kinh doanh khi các “điều kiện thị trường” đảm bảo hoàn vốn và có lợi nhuận, không có ràng buộc trách nhiệm phải đầu tư để cung cấp điện, hay đảm bảo an ninh năng lượng. Vì vậy, các quy định từ cơ quan quản lý nhà nước cần được ban hành để kiến tạo đủ “điều kiện thị trường” như đã nêu.

Trong khi cơ chế hỗ trợ phát triển năng lượng sạch, tái tạo chưa được thông suốt, liên tục và đang bị gián đoạn như điện mặt trời đã bị chững lại từ sau ngày 31/12/2020 và điện gió sau ngày 1/11/2021, cơ chế cho các nguồn điện “nền” thế hệ mới (điện khí trong nước, LNG nhập khẩu) chưa đủ thông thoáng, chặt chẽ để đảm bảo mở đường cho các nhà đầu tư tư nhân.

Dễ dàng nhận thấy, sau tháng 12/2020, khi chấm dứt hiệu lực của Quyết định số 11 và 13 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích điện mặt trời (FIT1 và FIT2), không có dự án điện mặt trời trang trại nào được đầu tư xây dựng mới. Sau tháng 10/2021, khi hết hiệu lực của Quyết định số 39/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển điện gió, cũng chưa có dự án điện gió nào được đầu tư xây dựng. Ngoài khoảng 500 MW của các dự án điện mặt trời tự sản, tự tiêu được lắp đặt sau năm 2020 và một, hai dự án điện rác, điện sinh khối đang triển khai với vốn không lớn, hầu như các nguồn vốn cho dự án điện năng lượng tái tạo đang “nằm chờ” cơ chế thích hợp.

Điều đáng nói, thị trường điện cạnh tranh lẽ ra đã phải ở cấp độ thị trường bán lẻ điện cạnh tranh, nhưng đến nay vẫn chỉ có một người mua duy nhất là EVN. Các đơn vị mua buôn bán lẻ vẫn là các tổng công ty phân phối thuộc EVN. Trong khi đó, một trong các yếu tố để mở rộng thêm “người mua” là cơ chế Mua bán điện trực tiếp (DPPA) dù đã được dự thảo nhiều lần, nhưng đến nay, Nghị định về DPPA vẫn chưa thể ban hành.

Mặt khác, giá điện bán lẻ điện chưa phản ánh đúng, đầy đủ và linh hoạt chi phí các khâu của bên cung ứng điện không được điều chỉnh linh hoạt trong nhiều năm qua. Điều này dẫn tới lỗ lũy kế với EVN và không truyền đạt tín hiệu thị trường đúng đắn với các nhà đầu tư ngoài nhà nước. Điều này càng gây khó khăn trong huy động vốn đầu tư cho ngành điện.

6bai2824
Để thúc đẩy đầu tư điện gió ngoài khơi cần làm gió các quy định về khảo sát khu vực mặt biển, đáy biển cho dự án điện gió ngoài khơi, quy định đấu thầu dự án khu vực biển…

Cần có chính sách cụ thể

Trong các nhóm giải pháp chính sách huy động vốn đầu thư cho Quy hoạch Điện VIII, thứ nhất, cấp có thẩm quyền cần xem xét bổ sung, hoàn chỉnh các luật và quy định cụ thể cho cấp chủ trương đầu tư và huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nguồn điện, khuyến khích NLTT. Trong đó có định nghĩa về điện gió ngoài khơi; các quy định về khảo sát khu vực mặt biển, đáy biển cho dự án điện gió ngoài khơi, quy định đấu thầu dự án khu vực biển…

Cần hoàn chỉnh các quy định về đầu tư nguồn điện LNG. Trong đó xét đến các yếu tố đảm bảo hoàn vốn đầu tư dự án, nhưng đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng giữa các loại hình trong thị trường phát điện. Xem xét áp dụng một số cơ chế thí điểm đối với nguồn điện gió ngoài khơi, nguồn điện LNG để đảm bảo an ninh năng lượng trong giai đoạn đến năm 2030. Trong đó ưu tiên khu vực miền Bắc đang thiếu nguồn điện. Ban hành nghị định về cơ chế cho phát triển nguồn điện mặt trời tự sản, tự tiêu để khuyến khích đầu tư phát triển mô hình này. Ban hành cơ chế phù hợp để phát triển các nguồn điện linh hoạt, nguồn lưu trữ điện để tăng cường tích hợp năng lượng tái tạo vào hệ thống điện với tỷ lệ ngày càng cao như dự kiến trong Quy hoạch điện VIII. Nghiên cứu, ban hành cơ chế giá điện hai thành phần (giá công suất và giá điện năng) nhằm đảm bảo hoàn vốn đầu tư cho các nguồn chạy nền, linh hoạt, đồng thời đảm bảo trách nhiệm chia sẻ của hộ sử dụng điện lớn với đầu tư nâng cấp hệ thống điện và chuyển dịch năng lượng.

Thứ hai, các bên liên quan cần thực hiện đúng về chủ trương điều hành giá điện theo thị trường có điều tiết của nhà nước và thúc đẩy các yếu tố để hoàn chỉnh thị trường điện cạnh tranh bán buôn, bán lẻ. Quyết định số 5/2024/QĐ-TTg ngày 26/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ về quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân là hành lang pháp lý thuận lợi cho thực hiện vấn đề này.

Thứ ba, cần xử lý, giải quyết dứt điểm các dự án điện gió, mặt trời “chuyển tiếp” do lỡ cơ chế FIT, cũng như các dự án vi phạm về sai/thiếu các thủ tục đầu tư theo quy định để mở đường cho các dự án mới. Trong giai đoạn 2018 - 2022 nhiều dự án, nhà máy điện gió, mặt trời chậm tiến độ so với cơ chế FIT, có 81 dự án đang gửi hồ sơ tới EVN để được hưởng giá “tạm tính” bằng 50% so với khung giá chuyển tiếp theo Quyết định số 21/QĐ-BCT, ngày 7/1/2023 của Bộ Công Thương. Ngày 1/11/2023, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 19/2023/BCT về Phương pháp xây dựng khung giá phát điện áp dụng cho nhà máy điện gió, mặt trời.

Ngoài ra, một số nhà máy điện năng lượng tái tạo khác thiếu thủ tục, hoặc làm sai thủ tục đầu tư, cần thiết xử lý sớm theo hướng “không hợp thức cái sai” như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhưng hợp lý, hợp tình để đưa các dự án/nhà máy vào vận hành, tránh lãng phí vốn đầu tư, nguồn lực xã hội.

Sau cơ chế FIT có tác dụng “mồi” phát triển năng lượng tái tạo, các dự án còn lại và dự án mới sẽ phải chuyển sang cơ chế đấu thầu để chọn dự án, chọn nhà đầu tư phát triển. Việc giải quyết dứt điểm các tồn đọng, sai phạm hiện thời sẽ tạo điều kiện để chủ đầu tư các dự án mới tin tưởng, bỏ vốn triển khai. Các nguồn năng lượng tái tạo khi được “khơi thông” về cơ chế sẽ lấy lại đà tăng trưởng, đáp ứng yêu cầu của Quy hoạch điện VIII và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII.

Theo Monre

NỘI DUNG KHÁC

Việt Nam nỗ lực triển khai đồng bộ giải pháp chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Chuyển dịch năng lượng có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, chuyển đổi nền kinh tế theo hướng xanh và tác động đến tất cả các ngành liên quan đến sử dụng năng lượng. Việt Nam đang chú trọng chuyển dịch cả từ phía nguồn cung và phía sử dụng năng lượng, nhằm tạo tác động cộng hưởng và thúc đẩy quá trình diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp ngày càng cạn kiệt, Việt Nam vừa phải đảm bảo an ninh năng lượng vừa phải đảm bảo đáp ứng các cam kết quốc tế về hạn chế những nguồn điện gây phát thải CO2. Nhìn về dài hạn, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch”.

Các Kịch bản phát triển giao thông theo hướng Net Zero

20-9-2024

Với mục tiêu xây dựng kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) đối với 5 lĩnh vực: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, đường biển ven bờ và hàng không, GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu và đưa ra kịch bản hướng tới phát thải ròng về “0” trong ngành Giao thông vận tải (GTVT) tại Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2050. Theo nghiên cứu, trong năm 2021, ngành vận tải có khoảng 94.000 triệu lượt luân chuyển hành khách/km, tương đương với việc thải ra 188.300 triệu tấn carbon/km ra môi trường và hiện vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. Việc phát thải phụ thuộc chủ yếu vào nhiên liệu hoá thạch >95% nhu cầu năng lượng, trong đó, ngành giao thông vận tải (GTVT) tiêu thụ năng lượng đứng vị trí thứ 2 (16,5%), chỉ sau công nghiệp (54,1%), qua việc tiêu thụ năng lượng từ các sản phẩm than và dầu. Thời gian qua, Việt Nam đã và đang hướng đến mục tiêu thực hiện các kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) ngành GTVT đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0”, trong đó, các kịch bản đều hướng tới nguyên tắc chung: Phù hợp, nhất quán với mục tiêu và định hướng của chính sách; phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ năng lượng và phương tiện; tích hợp các giải pháp giảm thiểu khác trên cơ sở tối ưu chi phí.

Chính sách liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường có hiệu lực từ tháng 9/2024

23-9-2024

Từ tháng 9/2024, hàng loạt các chính sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ; quản lý và sử dụng tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường và hỗ trợ chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường sẽ bắt đầu có hiệu lực.

ISPONRE làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (Economic Research Institute for ASEAN and East Asia - ERIA)

25-9-2024

Ngày 23/9/2024, Phó Viện trưởng Nguyễn Trung Thắng cùng một số cán bộ của Viện đã có buổi làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA). Về phía ERIA có Ông Michikazu KOJIMA - Giám đốc dự án của ERIA cùng một số cán bộ đại diện phòng ban của Viện. ERIA là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi thỏa thuận chính thức giữa 16 lãnh đạo đứng đầu các chính phủ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần thứ 3 tại Singapore vào ngày 21 tháng 11 năm 2007. Trụ sở của ERIA đặt tại Indonesia dựa trên Thỏa thuận giữa Chính phủ Indonesia và ERIA vào ngày 13 và 14 tháng 10 năm 2013 thông qua Nghị định của Tổng thống số 56 ngày 27 tháng 6 năm 2016. ERIA thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phân tích chính sách và cung cấp các khuyến nghị về chính sách nhằm góp phần xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu rộng và phát triển bền vững ở Đông Á, đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Các lĩnh vực nghiên cứu của ERIA bao gồm thương mại và đầu tư, toàn cầu hóa, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, năng lượng và môi trường.

Tương lai viễn thám trong kỷ nguyên số

7-10-2024

Chúng ta đang sống trong thời kỳ kỷ nguyên số gắn liền với những đột phá về công nghệ, trong đó công nghệ viễn thám gắn liền với sự phát triển công nghệ thông tin, đóng vai trò là công nghệ cốt lõi được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tương lai, xu hướng dữ liệu viễn thám đã trở nên phổ biến và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cả các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Nhu cầu dữ liệu viễn thám không ngừng gia tăng và ngày càng có xu hướng tích hợp các chủng loại khác nhau, bao gồm cả dữ liệu viễn thám thu thập từ các vệ tinh quan trắc trái đất, ảnh hàng không, ảnh chụp từ thiết bị bay không người lái và các dữ liệu đo đạc, quan trắc trên mặt đất. Cùng với đó, nguồn cung cấp dữ liệu viễn thám cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn từ các loại ảnh độ phân giải thấp như MODIS, VIIRS, OceanSat, độ phân giải trung bình như Landsat 8, Sentinel 1, 2 đến các loại ảnh độ phân giải cao và siêu cao như LISS-IV, SPOT 6/7, Planet Scope, Pleaides, KompSat, WorldView.

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng nằm trong danh mục thống kê quốc gia về biển, hải đảo

7-10-2024

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được đưa vào dự thảo Thông tư quy định Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và Bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Thông tư quy định bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Theo dự thảo, nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng gồm các chỉ tiêu: Số lượng giấy phép nhận chìm ở biển được cấp; số vụ, số lượng dầu tràn và hóa chất rò rỉ trên biển, diện tích bị ảnh hưởng; tỷ lệ khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững; số khu, diện tích và tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn biển; diện tích rừng ngập mặn ven biển. Lộ trình dự kiến có thể thực hiện ngay từ năm 2024 do đã có sẵn hoặc có nguồn thông tin để tính toán, tổng hợp.

Thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong điều kiện mới

7-10-2024

Nhằm góp phần triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh, ứng phó với các thách thức của biến đổi khí hậu và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, ngày 25/9/2024, tại Hà Nội, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Diễn đàn Khoa học cấp quốc gia với chủ đề “Thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong điều kiện mới”. Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước ta luôn coi kinh tế tuần hoàn là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Để hỗ trợ quá trình này, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và khung pháp lý quan trọng, bao gồm Luật BVMT năm 2020 và Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Việc thảo luận các chính sách cũng như nhận diện những khó khăn trong quá trình thực hiện kinh tế tuần hoàn rất cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của mô hình này. Do đó, theo PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Diễn đàn được tổ chức nhằm tìm kiếm giải pháp và kiến nghị chính sách để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đồng thời cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách xanh hóa tại Việt Nam.

Mực nước biển dâng cao: Mối đe dọa cấp bách đối với nhân loại

7-10-2024

Mực nước biển trên toàn cầu đang dâng nhanh hơn và cao hơn bao giờ hết, tạo ra "mối đe dọa cấp bách và leo thang" đối với người dân trên toàn thế giới theo mô tả của Liên hợp quốc. Tổng thư ký Liên hợp quốc (LHQ) António Guterres đã đến thăm các quốc gia Thái Bình Dương, Tonga và Samoa, nơi mực nước biển dâng là một trong những vấn đề chính mà ông đã thảo luận với các cộng đồng mà ông đã gặp. Ngày 25/9 vừa qua, các nhà lãnh đạo và chuyên gia toàn cầu đã tập trung tại LHQ để thảo luận về cách tốt nhất nhằm giải quyết mối đe dọa này. Kể từ năm 1880, mực nước biển đã dâng cao khoảng 20-23 cm. Vào năm 2023, mực nước biển trung bình trên toàn cầu đã đạt mức cao kỷ lục mà Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) xác nhận, theo hồ sơ vệ tinh được lưu giữ từ năm 1993. Điều đáng lo ngại là tốc độ tăng trong 10 năm qua cao gấp đôi tốc độ mực nước biển dâng trong thập kỷ đầu tiên của hồ sơ vệ tinh, từ năm 1993 đến năm 2002. Mực nước biển dâng cao là kết quả của sự nóng lên của đại dương và sự tan chảy của các sông băng và các tảng băng, những hiện tượng là hậu quả trực tiếp của biến đổi khí hậu.

Hướng đến quản lý hóa chất, rác thải an toàn và bền vững

7-10-2024

Một năm sau khi được thông qua tại Bonn, Khung toàn cầu về hóa chất vừa đưa ra lời kêu gọi đầu tiên cho các dự án hướng đến mục tiêu quản lý hóa chất và rác thải an toàn và bền vững. Các dự án được chọn dự kiến ​​sẽ nghiên cứu các giải pháp xanh và bền vững, đồng thời định hướng các hành động nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại từ hóa chất và rác thải ở một số quốc gia khó khăn nhất thế giới. Bà Sheila Aggarwal-Khan, Giám đốc Ban Công nghiệp và Kinh tế của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cho biết: "Ô nhiễm và rác thải là cuộc khủng hoảng hàng ngày đối với sức khỏe của con người, cản trở hoạt động kinh tế và để lại “vết sẹo” vĩnh viễn cho thiên nhiên. Hiện nay, Khung toàn cầu về hóa chất đang chuyển từ văn bản thành hành động thực tiễn và mang lại lợi ích cụ thể cho những người ở tuyến đầu của cuộc khủng hoảng này".

Đưa giảm lãng phí thực phẩm vào trọng tâm chiến lược hành động vì khí hậu

7-10-2024

Việc giảm lãng phí thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong giải quyết biến đổi khí hậu, đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững và giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực toàn cầu. Vào năm 2022, con số khổng lồ 1,05 tỷ tấn thực phẩm đã bị lãng phí, trong khi 783 triệu người bị đói và 1/3 dân số toàn cầu phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực. Cũng trong năm 2022, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cho biết, 19% thực phẩm có sẵn cho người tiêu dùng đã bị lãng phí ở cấp độ bán lẻ, dịch vụ thực phẩm và hộ gia đình, ngoài 13% thực phẩm trên thế giới bị thất thoát trong chuỗi cung ứng, theo ước tính của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO). Mức độ lãng phí này không chỉ là làm bỏ lỡ cơ hội để nuôi sống nhiều người đang cần thực phẩm mà còn là gánh nặng đáng kể cho môi trường.

Tập huấn Xây dựng đề xuất dự án về giảm ô nhiễm rác thải nhựa

9-10-2024

Ngày 9/10/2024, trong khuôn khổ hợp tác với Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) tổ chức Tập huấn Xây dựng đề xuất dự án về giảm ô nhiễm rác thải nhựa. Buổi tập huấn do TS. Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng ISPONRE chủ trì. Mục tiêu của việc tập huấn là hướng dẫn học viên xây dựng các đề xuất dự án, tăng cường hiểu biết về các cơ chế tài trợ khác nhau và tìm hiểu môi trường thuận lợi cần thiết để huy động tài trợ, đồng thời, tạo điều kiện cho học viên thiết kế và xây dựng đề xuất dự án. Qua tập huấn, học viên sẽ được tăng cường kỹ năng xây dựng đề xuất dự án nhằm giải quyết hiệu quả các vấn đề môi trường, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa, học viên sẽ được tăng cường hiểu biết về các tiêu chí, quy trình và yêu cầu trong quá trình xây dựng đề xuất tài trợ.

Tọa đàm Quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam: Từ mục tiêu chính sách đến hành động thực tiễn

17-10-2024

Ngày 16/10/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) tổ chức Tọa đàm về Quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam: Từ mục tiêu chính sách đến hành động thực tiễn. Đây là 1 hoạt động trong khuôn khổ hợp phần 4-Chính sách và quản trị thuộc “Nguồn phát thải, Nơi tích tụ và các giải pháp giảm thiểu tác động của rác thải nhựa đến cộng đồng ven biển Việt Nam” do Quỹ Nghiên cứu thách thức toàn cầu (GCRF) của Chính phủ Anh tài trợ và được thực hiện bởi Đại học Heriot Watt, Anh quốc và 6 đối tác gồm Đại học Phenikaa, Đại học Quốc gia Hà Nội- Viện Viện Nam học và Phát triển bền vững, Đại học Công nghệ Hà Nội (USTH), Trường cao đẳng Kinh tế-kỹ thuật thủy sản, Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản và Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường. Tham dự Tọa đàm có GS. Michel Kaiser, Đại học Heriot Watt, Vương quốc Anh, Giám đốc dự án; Bà Ngô Thị Thúy Hường, Đại học Phenikaa, Việt Nam - Đồng giám đốc dự án cùng các cán bộ dự án, khách mời, chuyên gia. Mục tiêu của tọa đàm là trình bày, chia sẻ các nỗ lực về giảm thiểu rác thải đại dương của Việt Nam; tmột số kết quả phân tích hệ thống chính sách về quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam; Tham vấn, trao đổi với các bên liên quan để nhận diện một số thách thức, giải pháp để giảm rác thải nhựa biển ở Việt Nam; Trao đổi, đề xuất lộ trình để thực hiện mục tiêu về giảm rác thải nhựa trong thời gian tới. Viện trưởng, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ chủ trì buổi tọa đàm.