TIN TỨC-SỰ KIỆN

Các Kịch bản phát triển giao thông theo hướng Net Zero

Ngày đăng: 20 | 09 | 2024

Với mục tiêu xây dựng kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) đối với 5 lĩnh vực: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, đường biển ven bờ và hàng không, GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu và đưa ra kịch bản hướng tới phát thải ròng về “0” trong ngành Giao thông vận tải (GTVT) tại Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2050. Theo nghiên cứu, trong năm 2021, ngành vận tải có khoảng 94.000 triệu lượt luân chuyển hành khách/km, tương đương với việc thải ra 188.300 triệu tấn carbon/km ra môi trường và hiện vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. Việc phát thải phụ thuộc chủ yếu vào nhiên liệu hoá thạch >95% nhu cầu năng lượng, trong đó, ngành giao thông vận tải (GTVT) tiêu thụ năng lượng đứng vị trí thứ 2 (16,5%), chỉ sau công nghiệp (54,1%), qua việc tiêu thụ năng lượng từ các sản phẩm than và dầu. Thời gian qua, Việt Nam đã và đang hướng đến mục tiêu thực hiện các kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) ngành GTVT đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0”, trong đó, các kịch bản đều hướng tới nguyên tắc chung: Phù hợp, nhất quán với mục tiêu và định hướng của chính sách; phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ năng lượng và phương tiện; tích hợp các giải pháp giảm thiểu khác trên cơ sở tối ưu chi phí.

12092024 B2 Ảnh 1 (1)
Các phương tiện giao thông cơ giới gây nên tình trạng phát thải khí nhà kính nghiêm trọng

Với kịch bản BAU (phát triển GTVT theo hướng phát thải thông thường) sẽ bao gồm tất cả các chính sách và các can thiệp được ban hành cho đến năm cơ sở 2019; Kịch bản quốc gia tự thực hiện (kịch bản NLTN) – giảm phát thải bằng nguồn lực trong nước, sẽ phản ánh sự chuyển đổi các phương tiện giao thông (PTGT) sang sử dụng điện và năng lượng xanh phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ và chính sách thúc đẩy chuyển đổi bằng nguồn lực trong nước.

Cùng với đó, kịch bản hướng tới PTR0 (kịch bản có sự hỗ trợ quốc tế) sẽ tích hợp tất cả các chính sách và giải pháp giảm thiểu để đạt mục tiêu PTR0 trong ngành GTVT vào năm 2050, đồng thời, phản ánh mục tiêu tham vọng trong việc chuyển dịch công nghệ phương tiện và năng lượng, phù hợp với xu hướng phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, BAU vẫn chưa thực hiện được biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK theo Nghị định 06/NĐ-CP/2021.

Theo đó, các kịch bản này sử dụng 4 giải pháp chính bao gồm: Sử dụng hiệu quả năng lượng – giúp giới hạn mức tiêu thụ năng lượng đối với xe máy và ô tô con, tăng hệ số tải của ô tô tải; Chuyển đổi phương tiện cá nhân sang công cộng – nhằm chuyển đổi phương tiện cá nhân sang xe buýt và đường sắt đô thị, cũng như chuyển đổi vận tải hành khách bằng đường bộ sang đường sắt tốc độ cao.

Chuyển đổi vận tải hàng hoá từ đường bộ sang đường sắt và đường thuỷ, theo hướng đường thuỷ nội địa và đường biển (ven bờ); Chuyển đổi nhiên liệu, năng lượng sẽ gồm 12 giải pháp về sử dụng nhiên liệu sinh học, nhiên liệu thay thế cho các loại nhiên liệu hoá thạch truyền thống. Các khung giải pháp đều áp dụng cho tất cả các phương thức vận tải, chủ yếu cho các tàu đường thuỷ nội địa và hàng hải.

Dựa trên các kịch bản hướng tới giảm nhẹ phát thải KNK, sự thâm nhập của các loại nhiên liệu, năng lượng sẽ vận hành theo nhu cầu năng lượng và xu thế chuyển dịch. Trong đó, dự đoán từ năm 2025 - 2050, về luân chuyển hành khách, đường bộ luôn chiếm thị phần lớn nhất (trên 85%) và không khác biệt đáng kể giữa 3 kịch bản. Với kịch bản NLTN và PTR0, hàng không chiếm thị phần cao thứ 2, nhưng có xu hướng giảm dần và nhường thị phần cho vận tải đường sắt.

Về luân chuyển hàng hoá, đường bộ, đường ven biển và đường thuỷ nội địa là các lĩnh vực chiếm thị phần lớn nhất trong cả 3 kịch bản. Tuy nhiên, với kịch bản PTR0, có sự chuyển dịch giảm thị phần đường bộ và tăng rõ rệt thị phần đường sắt; đồng thời, đến năm 2050 sẽ gia tăng mạnh mẽ sự thâm nhập của nhiều loại năng lượng xanh (NLX bao gồm: amonic, hydrogen, methanol và SAF) theo Kịch bản PTR0.

Qua đó có thể thấy, nhu cầu năng lượng của 2 kịch bản giảm phát thải là NLTN và PTR0 sẽ giảm so với Kịch bản BAU, đến năm 2050: 88,2 Mtoe (BAU) xuống còn 52,4 Mtoe (theo kịch bản PTR0); nhiên liệu hoá thạch chiếm tỉ trọng chủ yếu trong BAU đối với 2 kịch bản giảm phát thải nhưng đến năm 2050 cũng giảm đi từ 91,7 % (BAU) xuống 60,2 (NLTN) và còn 17,2% (PTR0: bao gồm xăng/ diesel/ HFO/ xăng máy bay).

Đối với vận tải đường bộ trong giai đoạn 2025 – 2050: Điện chiếm tỉ trọng 0,8% - 19% tổng nhu cầu năng lượng của lĩnh vực này theo Kịch bản PTRO. Điện được sử dụng trong lĩnh vực đường bộ theo cả 3 kịch bản từ 5 cơ sở là năng lượng xanh duy nhất được sử dụng trong kịch bản BAU.

Trong đó, nghiên cứu chỉ ra về tổng lượng phát thải KNK, nếu theo kịch bản BAU, lượng KNK gia tăng trong suốt giai đoạn 2025 – 2050, tốc độ trung bình 4,7%/ năm (không có đỉnh phát thải) và dự báo đạt khoảng 273,21 triệu tấn CO2eq vào năm 2050.

Kịch bản NLTN có thể hạ thấp lượng phát thải so với BAU, tuy nhiên, phát thải KNK vẫn gia tăng qua các năm. Dự báo đến năm 2050, phát thải sẽ vào khoảng 171,65 triệu tấn CO2eq, giảm 37% so với BAU (không có đỉnh phát thải).

12092024 B2 Ảnh 2
Ngành Giao thông vận tải nỗ lực chuyển đổi và sử dụng năng lượng xanh

Với kịch bản PTR0, phát thải KNK trong năm 2050 chỉ còn khoảng 30,34 triệu tấn CO2eq, bằng 11,1% so với BAU – tỉ lệ này cơ bản tương đồng với kịch bản đã được xây dựng trong Chiến lược Quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050. Theo đó, chi phó đầu tư giai đoạn 2025 – 2050 cho kịch bản NLTN khoảng 1.176,17 tỷ USD. Kịch bản PTR0 có chi phí 1.225,37 tỷ USD, cao hơn NLTN.

Do đó, để thực hiện các kịch bản này, GS.TS Lê Anh Tuấn đưa ra một số khuyến nghị. Trong đó, cần có công tác quản lý Nhà nước, phối hợp liên ngành để xây dựng các cơ chế huy động nguồn lực, phân bổ vốn đầu tư, đặc biệt chú trọng vai trò quan trọng của đầu tư hạ tầng nhằm tăng cường năng lực, đảm bảo cho chuyển đổi năng lượng và chuyển đổi phương thức; Tập trung nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ, kịp thời đáp ứng chuyển đổi xanh trong lĩnh vực GTVT; Đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với chuyển đổi năng lượng xanh trong GTVT; quan hệ hợp tác quốc tế; cơ chế giám sát thực hiện, cũng như truyền thông nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng thực hiện.

Theo Monre

NỘI DUNG KHÁC

Chính sách liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường có hiệu lực từ tháng 9/2024

23-9-2024

Từ tháng 9/2024, hàng loạt các chính sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ; quản lý và sử dụng tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường và hỗ trợ chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường sẽ bắt đầu có hiệu lực.

ISPONRE làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (Economic Research Institute for ASEAN and East Asia - ERIA)

25-9-2024

Ngày 23/9/2024, Phó Viện trưởng Nguyễn Trung Thắng cùng một số cán bộ của Viện đã có buổi làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA). Về phía ERIA có Ông Michikazu KOJIMA - Giám đốc dự án của ERIA cùng một số cán bộ đại diện phòng ban của Viện. ERIA là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi thỏa thuận chính thức giữa 16 lãnh đạo đứng đầu các chính phủ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần thứ 3 tại Singapore vào ngày 21 tháng 11 năm 2007. Trụ sở của ERIA đặt tại Indonesia dựa trên Thỏa thuận giữa Chính phủ Indonesia và ERIA vào ngày 13 và 14 tháng 10 năm 2013 thông qua Nghị định của Tổng thống số 56 ngày 27 tháng 6 năm 2016. ERIA thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phân tích chính sách và cung cấp các khuyến nghị về chính sách nhằm góp phần xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu rộng và phát triển bền vững ở Đông Á, đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Các lĩnh vực nghiên cứu của ERIA bao gồm thương mại và đầu tư, toàn cầu hóa, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, năng lượng và môi trường.

Tương lai viễn thám trong kỷ nguyên số

7-10-2024

Chúng ta đang sống trong thời kỳ kỷ nguyên số gắn liền với những đột phá về công nghệ, trong đó công nghệ viễn thám gắn liền với sự phát triển công nghệ thông tin, đóng vai trò là công nghệ cốt lõi được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tương lai, xu hướng dữ liệu viễn thám đã trở nên phổ biến và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cả các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Nhu cầu dữ liệu viễn thám không ngừng gia tăng và ngày càng có xu hướng tích hợp các chủng loại khác nhau, bao gồm cả dữ liệu viễn thám thu thập từ các vệ tinh quan trắc trái đất, ảnh hàng không, ảnh chụp từ thiết bị bay không người lái và các dữ liệu đo đạc, quan trắc trên mặt đất. Cùng với đó, nguồn cung cấp dữ liệu viễn thám cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn từ các loại ảnh độ phân giải thấp như MODIS, VIIRS, OceanSat, độ phân giải trung bình như Landsat 8, Sentinel 1, 2 đến các loại ảnh độ phân giải cao và siêu cao như LISS-IV, SPOT 6/7, Planet Scope, Pleaides, KompSat, WorldView.

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng nằm trong danh mục thống kê quốc gia về biển, hải đảo

7-10-2024

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được đưa vào dự thảo Thông tư quy định Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và Bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Thông tư quy định bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Theo dự thảo, nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng gồm các chỉ tiêu: Số lượng giấy phép nhận chìm ở biển được cấp; số vụ, số lượng dầu tràn và hóa chất rò rỉ trên biển, diện tích bị ảnh hưởng; tỷ lệ khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững; số khu, diện tích và tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn biển; diện tích rừng ngập mặn ven biển. Lộ trình dự kiến có thể thực hiện ngay từ năm 2024 do đã có sẵn hoặc có nguồn thông tin để tính toán, tổng hợp.

Thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong điều kiện mới

7-10-2024

Nhằm góp phần triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh, ứng phó với các thách thức của biến đổi khí hậu và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, ngày 25/9/2024, tại Hà Nội, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Diễn đàn Khoa học cấp quốc gia với chủ đề “Thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong điều kiện mới”. Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước ta luôn coi kinh tế tuần hoàn là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Để hỗ trợ quá trình này, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và khung pháp lý quan trọng, bao gồm Luật BVMT năm 2020 và Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Việc thảo luận các chính sách cũng như nhận diện những khó khăn trong quá trình thực hiện kinh tế tuần hoàn rất cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của mô hình này. Do đó, theo PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Diễn đàn được tổ chức nhằm tìm kiếm giải pháp và kiến nghị chính sách để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đồng thời cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách xanh hóa tại Việt Nam.

Mực nước biển dâng cao: Mối đe dọa cấp bách đối với nhân loại

7-10-2024

Mực nước biển trên toàn cầu đang dâng nhanh hơn và cao hơn bao giờ hết, tạo ra "mối đe dọa cấp bách và leo thang" đối với người dân trên toàn thế giới theo mô tả của Liên hợp quốc. Tổng thư ký Liên hợp quốc (LHQ) António Guterres đã đến thăm các quốc gia Thái Bình Dương, Tonga và Samoa, nơi mực nước biển dâng là một trong những vấn đề chính mà ông đã thảo luận với các cộng đồng mà ông đã gặp. Ngày 25/9 vừa qua, các nhà lãnh đạo và chuyên gia toàn cầu đã tập trung tại LHQ để thảo luận về cách tốt nhất nhằm giải quyết mối đe dọa này. Kể từ năm 1880, mực nước biển đã dâng cao khoảng 20-23 cm. Vào năm 2023, mực nước biển trung bình trên toàn cầu đã đạt mức cao kỷ lục mà Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) xác nhận, theo hồ sơ vệ tinh được lưu giữ từ năm 1993. Điều đáng lo ngại là tốc độ tăng trong 10 năm qua cao gấp đôi tốc độ mực nước biển dâng trong thập kỷ đầu tiên của hồ sơ vệ tinh, từ năm 1993 đến năm 2002. Mực nước biển dâng cao là kết quả của sự nóng lên của đại dương và sự tan chảy của các sông băng và các tảng băng, những hiện tượng là hậu quả trực tiếp của biến đổi khí hậu.

Hướng đến quản lý hóa chất, rác thải an toàn và bền vững

7-10-2024

Một năm sau khi được thông qua tại Bonn, Khung toàn cầu về hóa chất vừa đưa ra lời kêu gọi đầu tiên cho các dự án hướng đến mục tiêu quản lý hóa chất và rác thải an toàn và bền vững. Các dự án được chọn dự kiến ​​sẽ nghiên cứu các giải pháp xanh và bền vững, đồng thời định hướng các hành động nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại từ hóa chất và rác thải ở một số quốc gia khó khăn nhất thế giới. Bà Sheila Aggarwal-Khan, Giám đốc Ban Công nghiệp và Kinh tế của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cho biết: "Ô nhiễm và rác thải là cuộc khủng hoảng hàng ngày đối với sức khỏe của con người, cản trở hoạt động kinh tế và để lại “vết sẹo” vĩnh viễn cho thiên nhiên. Hiện nay, Khung toàn cầu về hóa chất đang chuyển từ văn bản thành hành động thực tiễn và mang lại lợi ích cụ thể cho những người ở tuyến đầu của cuộc khủng hoảng này".

Đưa giảm lãng phí thực phẩm vào trọng tâm chiến lược hành động vì khí hậu

7-10-2024

Việc giảm lãng phí thực phẩm đóng vai trò quan trọng trong giải quyết biến đổi khí hậu, đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững và giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực toàn cầu. Vào năm 2022, con số khổng lồ 1,05 tỷ tấn thực phẩm đã bị lãng phí, trong khi 783 triệu người bị đói và 1/3 dân số toàn cầu phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực. Cũng trong năm 2022, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) cho biết, 19% thực phẩm có sẵn cho người tiêu dùng đã bị lãng phí ở cấp độ bán lẻ, dịch vụ thực phẩm và hộ gia đình, ngoài 13% thực phẩm trên thế giới bị thất thoát trong chuỗi cung ứng, theo ước tính của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO). Mức độ lãng phí này không chỉ là làm bỏ lỡ cơ hội để nuôi sống nhiều người đang cần thực phẩm mà còn là gánh nặng đáng kể cho môi trường.

Tập huấn Xây dựng đề xuất dự án về giảm ô nhiễm rác thải nhựa

9-10-2024

Ngày 9/10/2024, trong khuôn khổ hợp tác với Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) tổ chức Tập huấn Xây dựng đề xuất dự án về giảm ô nhiễm rác thải nhựa. Buổi tập huấn do TS. Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng ISPONRE chủ trì. Mục tiêu của việc tập huấn là hướng dẫn học viên xây dựng các đề xuất dự án, tăng cường hiểu biết về các cơ chế tài trợ khác nhau và tìm hiểu môi trường thuận lợi cần thiết để huy động tài trợ, đồng thời, tạo điều kiện cho học viên thiết kế và xây dựng đề xuất dự án. Qua tập huấn, học viên sẽ được tăng cường kỹ năng xây dựng đề xuất dự án nhằm giải quyết hiệu quả các vấn đề môi trường, đặc biệt là ô nhiễm rác thải nhựa, học viên sẽ được tăng cường hiểu biết về các tiêu chí, quy trình và yêu cầu trong quá trình xây dựng đề xuất tài trợ.

Tọa đàm Quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam: Từ mục tiêu chính sách đến hành động thực tiễn

17-10-2024

Ngày 16/10/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) tổ chức Tọa đàm về Quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam: Từ mục tiêu chính sách đến hành động thực tiễn. Đây là 1 hoạt động trong khuôn khổ hợp phần 4-Chính sách và quản trị thuộc “Nguồn phát thải, Nơi tích tụ và các giải pháp giảm thiểu tác động của rác thải nhựa đến cộng đồng ven biển Việt Nam” do Quỹ Nghiên cứu thách thức toàn cầu (GCRF) của Chính phủ Anh tài trợ và được thực hiện bởi Đại học Heriot Watt, Anh quốc và 6 đối tác gồm Đại học Phenikaa, Đại học Quốc gia Hà Nội- Viện Viện Nam học và Phát triển bền vững, Đại học Công nghệ Hà Nội (USTH), Trường cao đẳng Kinh tế-kỹ thuật thủy sản, Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản và Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường. Tham dự Tọa đàm có GS. Michel Kaiser, Đại học Heriot Watt, Vương quốc Anh, Giám đốc dự án; Bà Ngô Thị Thúy Hường, Đại học Phenikaa, Việt Nam - Đồng giám đốc dự án cùng các cán bộ dự án, khách mời, chuyên gia. Mục tiêu của tọa đàm là trình bày, chia sẻ các nỗ lực về giảm thiểu rác thải đại dương của Việt Nam; tmột số kết quả phân tích hệ thống chính sách về quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam; Tham vấn, trao đổi với các bên liên quan để nhận diện một số thách thức, giải pháp để giảm rác thải nhựa biển ở Việt Nam; Trao đổi, đề xuất lộ trình để thực hiện mục tiêu về giảm rác thải nhựa trong thời gian tới. Viện trưởng, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ chủ trì buổi tọa đàm.

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức buổi Gặp mặt - Chào mừng kỷ niệm 94 năm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10

21-10-2024

Vào ngày 18/10/1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20/10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là “Ngày Phụ nữ Việt Nam” và được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng: “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”. Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 là ngày đầu tiên trong lịch sử nước ta, một đoàn thể quần chúng của phụ nữ được hoạt động hợp pháp và công khai, nhằm đoàn kết, động viên lực lượng phụ nữ đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước. Trải qua bao thăng trầm của xã hội, người phụ nữ Việt Nam ngày càng có tri thức, có sức khỏe, càng năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm tới lợi ích xã hội và cộng đồng. Nhân dịp này, ngày 18/20/2024, Công Đoàn và Đoàn Thanh niên Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đã phối hợp tổ chức buổi Gặp mặt Chào mừng kỷ niệm 94 năm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 nhằm tôn vinh phụ nữ Việt Nam, cũng như thay mặt Viện gửi đến chị em lời chúc mừng, động viên chân thành vì đã luôn khắc phục khó khăn, giỏi việc nước, đảm việc nhà, cống hiến vì sự phát triển chung của Viện. Lãnh đạo Viện đến dự đông đủ, đại diện cho phái mạnh của Viện gửi tặng chị em lời chúc tốt đẹp, món quà và những bó hoa tươi thắm.

Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

21-10-2024

Nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc lãnh đạo, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười; tập trung cao nhất các công việc về đích để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và chuẩn bị tốt nhất các công việc cho Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV, ngày 20/10/2024, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp, kết hợp trực tuyến với điểm cầu Trung ương; điểm cầu các đảng ủy trực thuộc Trung ương; điểm cầu các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ở Trung ương, Ban cán sự đảng các bộ, ngành, đơn vị, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương… Tại điểm cầu Đảng ủy Bộ TN&MT kết nối với điểm cầu Trung ương có sự tham dự và chủ trì của Thứ trưởng Lê Công Thành - Ủy viên Ban Cán sự Đảng, Bí thư Đảng ủy Bộ; các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ; Bí thư, Phó Bí thư các Đảng bộ, Chi bộ trực thuộc Đảng bộ Bộ; các đồng chí lãnh đạo, cán bộ chủ chốt các đơn vị thuộc Bộ. Chi bộ Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tham dự theo hình thức trực tuyến tại điểm cầu trụ sở Viện.