TIN TỨC-SỰ KIỆN

Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật)

Ngày đăng: 27 | 08 | 2024

Ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg. Thực hiện Luật BVMT năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương xây dựng danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và được cập nhật 2 năm một lần. Thực hiện quy định nêu trên, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg. Theo đó, các lĩnh vực phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm: năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, các quá trình công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, chất thải. Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm có 1.912 cơ sở, thuộc các ngành: công thương, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên và môi trường.

 

98 1724031173 1 718

Việc cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải kiểm kê khí nhà kính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giảm phát thải khí nhà kính; là cơ sở để tăng cường thực hiện kiểm kê khí nhà kính, giảm phát thải khí nhà kính và xác định mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của các cơ sở trong giai đoạn 2026 - 2030, góp phần thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế các-bon thấp, thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và hướng tới thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Việc ban hành và triển khai thực hiện Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng góp phần thực hiện quy định của Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu, nhằm hướng tới kiểm soát ít nhất 85% các nguồn phát thải chính tùy theo điều kiện, năng lực quốc gia.

Trên cơ sở rà soát của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và văn bản của các Bộ liên quan, Bộ TN&MT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật). Danh mục được Thủ tướng Chính phủ ban hành gồm 6 lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính và 2.166 cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.

6 lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm: (1) Năng lượng: Công nghiệp sản xuất năng lượng; Tiêu thụ năng lượng trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ và dân dụng; Khai thác than; Khai thác dầu và khí tự nhiên; (2) Giao thông vận tải: Tiêu thụ năng lượng trong giao thông vận tải; (3) Xây dựng: Tiêu thụ năng lượng trong ngành xây dựng; Các quá trình công nghiệp trong sản xuất vật liệu xây dựng; (4) Các quá trình công nghiệp: Sản xuất hóa chất; Luyện kim; Công nghiệp điện tử; Sử dụng sản phẩm thay thế cho các chất làm suy giảm tầng ô-dôn; Sản xuất và sử dụng các sản phẩm công nghiệp khác; (5) Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất: Chăn nuôi; Lâm nghiệp và thay đổi sử dụng đất; Trồng trọt; Tiêu thụ năng lượng trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; Các nguồn phát thải khác trong nông nghiệp; (6) Chất thải: Bãi chôn lấp chất thải rắn; Xử lý chất thải rắn bằng phương pháp sinh học; Thiêu đốt và đốt lộ thiên chất thải; Xử lý và xả thải nước thải.

Danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính năm 2024 là 2.166 cơ sở, tăng 254 cơ sở so với danh mục ban hành năm 2022. Theo đó, đã loại ra 297 cơ sở do đã dừng hoạt động hoặc giảm quy mô, công suất hoạt động và cập nhật bổ sung 551 cơ sở mới.

Ngành Công Thương có 1.805 cơ sở là các nhà máy điện, các cơ sở công nghiệp có tổng mức tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE (tấn dầu quy đổi) trở lên; theo đó đã loại ra 199 cơ sở và cập nhật bổ sung 342 cơ sở mới.

Ngành Giao thông vận tải có 75 cơ sở là các công ty kinh doanh vận tải hàng hóa có tổng mức tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; theo đó đã loại ra 26 cơ sở và cập nhật bổ sung 31 cơ sở mới.

Ngành Xây dựng có 229 cơ sở bao gồm các doanh nghiệp sản xuất xi măng, các tòa nhà thương mại có tổng mức tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; theo đó đã loại ra 37 cơ sở và cập nhật bổ sung 162 cơ sở mới.

Ngành Tài nguyên và môi trường có 57 cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động hằng năm từ 65.000 tấn trở lên; theo đó đã loại ra 35 cơ sở và cập nhật bổ sung 16 cơ sở mới.

Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính sẽ phải kiểm kê khí nhà kính cấp cơ sở theo hướng dẫn của Bộ quản lý lĩnh vực (Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ TN&MT), có trách nhiệm nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính của cơ sở theo Nghị định của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn.

Theo Tạp chí Môi trường

 

NỘI DUNG KHÁC

Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon

10-9-2024

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch số 09/KH-BTNMT Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon nhằm thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ; nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định Kế hoạch nhằm mục đích triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Chỉ thị số 13/CT-TTg, trong đó cụ thể hóa các nội dung, nhiệm vụ cho đơn vị có liên quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đồng thời nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam; về quản lý tín chỉ các-bon, phương thức tạo tín chỉ các-bon, phát triển thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon thế giới.

Châu Phi tăng cường hành động phối hợp: Biến khủng hoảng môi trường thành cơ hội phát triển

10-9-2024

Hội nghị Bộ trưởng châu Phi về Môi trường tuần này có thể là cơ hội cuối cùng để tất cả các bộ trưởng môi trường châu Phi tập trung và thống nhất các chính sách và hành động trước 3 hội nghị toàn cầu quan trọng về đa dạng sinh học, khí hậu và sa mạc hóa vào cuối năm nay. Tác động của ba cuộc khủng hoảng hành tinh gồm biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm đang làm tổn hại đến cảnh quan của châu Phi, làm cạn kiệt các đại dương và nguồn nước ngọt của châu lục này, đồng thời khiến tình trạng ô nhiễm không khí đô thị lên mức nguy hiểm. Một số tác động lan rộng của ba cuộc khủng hoảng hành tinh có thể là tác động tàn phá nhất: Châu Phi là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do sa mạc hóa và suy thoái đất, với khoảng 45% diện tích đất bị ảnh hưởng. Riêng ở vùng Sừng châu Phi và Sahel, suy thoái đất đã gây ra tình trạng thiếu lương thực cho hơn 23 triệu người. Chỉ tính riêng tháng trước, hơn 700.000 người đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Trung và Tây Phi, và hàng chục triệu người ở miền Nam châu Phi đang phải đối mặt với hạn hán.

Nhiên liệu ethanol - đóng góp quan trọng trong hành trình chuyển đổi “xanh”

10-9-2024

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc chuyển sang sử dụng nhiên liệu ethanol đóng góp tích cực trong hành trình này. Với gần 100 triệu dân và khoảng 79 triệu phương tiện (73 triệu xe máy và hơn 6 triệu ô tô), việc chuyển sang các nguồn nhiên liệu bền vững như xăng ethanol là cần thiết để phát triển hệ thống giao thông xanh giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050. Thực tế, chỉ riêng năm 2023, việc pha trộn ethanol vào xăng đã giúp giảm 56,5 triệu tấn khí thải nhà kính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Con số này tương đương với việc loại bỏ 12 triệu xe ô tô khỏi đường phố mỗi năm; lượng khí thải hàng năm của 15 nhà máy điện than; hoặc thậm chí tương đương với lượng khí thải từ 325.000 chuyến bay khứ hồi từ Los Angeles đến Thành phố New York. Theo nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ethanol sản xuất từ các nguyên liệu nông nghiệp có thể giảm lượng khí thải nhà kính lên đến 80%, tùy thuộc vào nguyên liệu sử dụng. Một tương lai xanh mà ở đó ethanol trở thành nhiên liệu chính cho động cơ là hoàn toàn có thể.

Đề xuất chính sách cho hệ thống pin lưu trữ

20-9-2024

Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) vừa đưa ra kết quả một số nghiên cứu về hệ thống lưu trữ điện năng ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của hệ thống pin lưu trữ (BESS) nhằm đảo bảo các nguồn năng lượng tái tạo phát triển ổn định. Nghiên cứu của Viện Năng lượng đưa ra tham khảo về hành lang pháp lý và mức độ áp dụng BESS ở một số nước như Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ. Các nước này đã chuẩn bị sẵn hành lang pháp lý và các quy định kỹ thuật để BESS tham gia vào hệ thống điện với vai trò cung cấp công suất đỉnh, cung cấp dịch vụ hỗ trợ. Ở cấp độ dự án là kết hợp với điện mặt trời, hay điện gió để cung cấp điện ổn định hơn với giá thành cạnh tranh. Tại Việt Nam, Viện Năng lượng tính toán mô phỏng cho hệ thống thí điểm 50 MW pin lưu trữ dự định đầu tư tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Vào mùa khô, BESS sẽ phải hoạt động nạp/xả 3 lần 1 tuần. Vào mùa mưa, khi nguồn nước thủy điện dồi dào, thủy điện đóng vai trò phủ đỉnh và ổn định tần số nên BESS chỉ phải huy động 1 lần trong 1 tuần.

Huy động vốn đầu tư chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh thực hiện chuyển dịch năng lượng, trọng tâm là chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Tổng vốn đầu tư cho nguồn, lưới điện truyền tải giai đoạn 2021-2030 trong Quy hoạch điện VIII khoảng 134,7 tỷ USD và đây là một thách thức rất lớn. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch điện VIII) đề ra mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2030. Tương ứng, tổng công suất các nhà máy điện phải đạt 150.489 MW và điện thương phẩm khoảng 505,2 tỷ kWh. Ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD (trung bình 13,5 tỷ USD/năm). Trong đó, đầu tư cho nguồn điện khoảng 119,8 tỷ USD (trung bình 12 tỷ USD/năm), lưới điện truyền tải khoảng 14,9 tỷ USD (trung bình 1,5 tỷ USD/năm).

Việt Nam nỗ lực triển khai đồng bộ giải pháp chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Chuyển dịch năng lượng có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, chuyển đổi nền kinh tế theo hướng xanh và tác động đến tất cả các ngành liên quan đến sử dụng năng lượng. Việt Nam đang chú trọng chuyển dịch cả từ phía nguồn cung và phía sử dụng năng lượng, nhằm tạo tác động cộng hưởng và thúc đẩy quá trình diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp ngày càng cạn kiệt, Việt Nam vừa phải đảm bảo an ninh năng lượng vừa phải đảm bảo đáp ứng các cam kết quốc tế về hạn chế những nguồn điện gây phát thải CO2. Nhìn về dài hạn, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch”.

Các Kịch bản phát triển giao thông theo hướng Net Zero

20-9-2024

Với mục tiêu xây dựng kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) đối với 5 lĩnh vực: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, đường biển ven bờ và hàng không, GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu và đưa ra kịch bản hướng tới phát thải ròng về “0” trong ngành Giao thông vận tải (GTVT) tại Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2050. Theo nghiên cứu, trong năm 2021, ngành vận tải có khoảng 94.000 triệu lượt luân chuyển hành khách/km, tương đương với việc thải ra 188.300 triệu tấn carbon/km ra môi trường và hiện vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. Việc phát thải phụ thuộc chủ yếu vào nhiên liệu hoá thạch >95% nhu cầu năng lượng, trong đó, ngành giao thông vận tải (GTVT) tiêu thụ năng lượng đứng vị trí thứ 2 (16,5%), chỉ sau công nghiệp (54,1%), qua việc tiêu thụ năng lượng từ các sản phẩm than và dầu. Thời gian qua, Việt Nam đã và đang hướng đến mục tiêu thực hiện các kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) ngành GTVT đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0”, trong đó, các kịch bản đều hướng tới nguyên tắc chung: Phù hợp, nhất quán với mục tiêu và định hướng của chính sách; phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ năng lượng và phương tiện; tích hợp các giải pháp giảm thiểu khác trên cơ sở tối ưu chi phí.

Chính sách liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường có hiệu lực từ tháng 9/2024

23-9-2024

Từ tháng 9/2024, hàng loạt các chính sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ; quản lý và sử dụng tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường và hỗ trợ chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường sẽ bắt đầu có hiệu lực.

ISPONRE làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (Economic Research Institute for ASEAN and East Asia - ERIA)

25-9-2024

Ngày 23/9/2024, Phó Viện trưởng Nguyễn Trung Thắng cùng một số cán bộ của Viện đã có buổi làm việc với Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA). Về phía ERIA có Ông Michikazu KOJIMA - Giám đốc dự án của ERIA cùng một số cán bộ đại diện phòng ban của Viện. ERIA là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi thỏa thuận chính thức giữa 16 lãnh đạo đứng đầu các chính phủ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần thứ 3 tại Singapore vào ngày 21 tháng 11 năm 2007. Trụ sở của ERIA đặt tại Indonesia dựa trên Thỏa thuận giữa Chính phủ Indonesia và ERIA vào ngày 13 và 14 tháng 10 năm 2013 thông qua Nghị định của Tổng thống số 56 ngày 27 tháng 6 năm 2016. ERIA thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phân tích chính sách và cung cấp các khuyến nghị về chính sách nhằm góp phần xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế sâu rộng và phát triển bền vững ở Đông Á, đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia. Các lĩnh vực nghiên cứu của ERIA bao gồm thương mại và đầu tư, toàn cầu hóa, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, năng lượng và môi trường.

Tương lai viễn thám trong kỷ nguyên số

7-10-2024

Chúng ta đang sống trong thời kỳ kỷ nguyên số gắn liền với những đột phá về công nghệ, trong đó công nghệ viễn thám gắn liền với sự phát triển công nghệ thông tin, đóng vai trò là công nghệ cốt lõi được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tương lai, xu hướng dữ liệu viễn thám đã trở nên phổ biến và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cả các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Nhu cầu dữ liệu viễn thám không ngừng gia tăng và ngày càng có xu hướng tích hợp các chủng loại khác nhau, bao gồm cả dữ liệu viễn thám thu thập từ các vệ tinh quan trắc trái đất, ảnh hàng không, ảnh chụp từ thiết bị bay không người lái và các dữ liệu đo đạc, quan trắc trên mặt đất. Cùng với đó, nguồn cung cấp dữ liệu viễn thám cũng ngày càng đa dạng, phong phú hơn từ các loại ảnh độ phân giải thấp như MODIS, VIIRS, OceanSat, độ phân giải trung bình như Landsat 8, Sentinel 1, 2 đến các loại ảnh độ phân giải cao và siêu cao như LISS-IV, SPOT 6/7, Planet Scope, Pleaides, KompSat, WorldView.

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng nằm trong danh mục thống kê quốc gia về biển, hải đảo

7-10-2024

Nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng được đưa vào dự thảo Thông tư quy định Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và Bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Thông tư quy định bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. Theo dự thảo, nhóm chỉ tiêu Môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng gồm các chỉ tiêu: Số lượng giấy phép nhận chìm ở biển được cấp; số vụ, số lượng dầu tràn và hóa chất rò rỉ trên biển, diện tích bị ảnh hưởng; tỷ lệ khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững; số khu, diện tích và tỷ lệ diện tích các khu bảo tồn biển; diện tích rừng ngập mặn ven biển. Lộ trình dự kiến có thể thực hiện ngay từ năm 2024 do đã có sẵn hoặc có nguồn thông tin để tính toán, tổng hợp.

Thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong điều kiện mới

7-10-2024

Nhằm góp phần triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh, ứng phó với các thách thức của biến đổi khí hậu và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, ngày 25/9/2024, tại Hà Nội, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Diễn đàn Khoa học cấp quốc gia với chủ đề “Thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong điều kiện mới”. Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước ta luôn coi kinh tế tuần hoàn là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Để hỗ trợ quá trình này, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và khung pháp lý quan trọng, bao gồm Luật BVMT năm 2020 và Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 7/6/2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Việc thảo luận các chính sách cũng như nhận diện những khó khăn trong quá trình thực hiện kinh tế tuần hoàn rất cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của mô hình này. Do đó, theo PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Diễn đàn được tổ chức nhằm tìm kiếm giải pháp và kiến nghị chính sách để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đồng thời cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách xanh hóa tại Việt Nam.