TIN TỨC-SỰ KIỆN

Phối hợp liên Bộ, liên ngành trong triển khai hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài

Ngày đăng: 16 | 10 | 2023

Thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 06/5/2021 của Chính phủ về việc tăng cường giải pháp hỗ trợ bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu ra nước ngoài, một chương trình hợp tác giữa 3 Bộ (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, và Bộ Công thương) đã được thống nhất theo Kế hoạch số 3962/KH-BKHC-BCT-BNNPTNT ngày 31/12/2021 về phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài (gọi tắt là Kế hoạch 3962). Tổ Công tác liên Bộ về triển khai Kế hoạch 3962 được thành lập (theo Quyết định số 1289/QĐ-BKHCN ngày 19/07/2022) gồm Cục Sở hữu trí tuệ (đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) và Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (nay là Cục Chất lượng, chế biến và phát triển thị trường – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

 

1.                Các hoạt động hợp tác giữa 3 Bộ:

Sau gần 2 năm triển khai thực hiện Kế hoạch 3962, 3 Bộ đã có một số hoạt động triển khai, phối hợp triển khai hỗ trợ thúc đẩy hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài. Các hoạt động tập trung vào:

-                Xây dựng lộ trình và lập kế hoạch nguồn lực hỗ trợ triển khai thực hiện Kế hoạch 3962: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 4782/QĐ-BNN-CBTTNS ngày 13/12/2022 phê duyệt Kế hoạch triển khai Kế hoạch phối hợp hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nông sản Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2022-2025. Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 3023/QĐ-BCT về việc phê duyệt nhiệm vụ và kinh phí thực hiện Kế hoạch 03 Bộ với tổng kinh phí ngân sách nhà nước năm 2023 là 1,5 tỷ đồng. Cục Xúc tiến thương mại làm đầu mối, phối hợp các đơn vị thuộc Bộ Công Thương (Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách, Vụ Thị trường Châu Á- Châu Phi, Vụ Thị trường Châu Âu- Châu Mỹ) triển khai thực hiện 5 đề án. Việc thúc đẩy hỗ trợ quyền sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm nông sản tiềm năng cũng được gắn với các hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu thông qua Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam.

-                Tập trung hỗ trợ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho một số nông sản tại một số thị trường: Theo Kế hoạch số 3962, các sản phẩm được hỗ trợ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho nhãn Sông Mã (Sơn La), xoài Cao Lãnh (Đồng Tháp), vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang). Các đơn vị liên quan cũng triển khai nghiên cứu phương án hỗ trợ quảng bá và hướng đến xây dựng nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm cà phê, tiêu, trái cây (sầu riêng, thanh long, xoài, bưởi). Cho đến nay, vải thiều Lục Ngạn và thanh long Bình Thuận đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản. Nhãn lồng Hưng Yên và xoài Đồng Tháp hiện đang được hỗ trợ kiện toàn công tác quản lý, kiểm soát sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhằm đáp ứng yêu cầu của Nhật Bản, Trung Quốc để đăng ký bảo hộ tại các quốc gia này.

-                Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia vào các chuỗi nông sản xuất khẩu: Các Bộ đều đã triển khai các hội thảo, hội nghị tập huấn, nâng cao nhận thức về đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài. Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với cơ quan sở hữu trí tuệ Trung Quốc tổ chức 3 hội thảo tập huấn về đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Trung Quốc (tại Sơn La, Tiền Giang, Hà Nội); xây dựng và phát hành tài liệu hướng dẫn đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu sang các thị trường xuất khẩu trọng điểm (Trung Quốc, châu Âu, Hoa Kỳ…). Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản đã chủ trì, phối hợp với một số tổ chức quốc tế tổ chức 02 Hội thảo (về Xây dựng và Bảo hộ nhãn hiệu sản nhằm phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam; và Phổ biến nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý lý nông sản Việt Nam tại thị trường quốc tế) và 01 lớp tập huấn (với chủ đề “Hướng dẫn, phổ biến quy trình, thủ tục đăng ký bảo hộ, quản trị và phát triển nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam tại thị trường EU”).

2.                Một số hạn chế, tồn tại trong triển khai

Thời gian qua, ngày càng có nhiều hơn sản phẩm nông sản của nước ta đã được bảo hộ tại nước ngoài dưới các hình thức chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu thông thường. Việc bảo hộ thành công chỉ dẫn địa lý cho vài thiều Lục Ngạn và thanh long Bình Thuận ở Nhật Bản cho thấy doanh nghiệp và nông dân Việt Nam có đủ năng lực sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn của những thị trường khó tính. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai hoạt động đăng ký nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho nông sản ở nước ngoài:

- Số lượng đăng ký nhãn hiệu quốc tế, nhãn hiệu có nguồn Việt Nam vẫn còn khiêm tốn so với số lượng các doanh nghiệp thành lập, hoạt động;

- Quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu cho các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc thù mang địa danh của nhiều quốc gia rất chặt chẽ, đặc biệt là quy định về năng lực cán bộ và cơ sở vật chất của tổ chức tập thể (Hiệp hội, Hợp tác xã…); quy định về tính thống nhất, ổn định, minh bạch thông tin trong quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm; quy định về vấn đề kiểm soát, truy xuất nguồn gốc, chất lượng, quy trình sản xuất. Do đó, nhiều sản phẩm nông nghiệp mang địa danh của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được quy định về điều kiện bảo hộ ở nước ngoài;

- Một số quốc gia yêu cầu một trong những điều kiện để bảo hộ ở nước ngoài là sản phẩm phải được kinh doanh tại quốc gia sở tại với bao bì tem nhãn của chủ thể/quốc gia đăng ký, trong khi nhiều sản phẩm của Việt Nam chưa được xuất khẩu chính ngạch, chưa phân phối, kinh doanh trực tiếp ở nước ngoài với bao bì tem nhãn của Việt Nam.

3.                Một số đề xuất giải pháp, kiến nghị

-                Việc lựa chọn các sản phẩm nông sản để bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, đặc biệt tại nước ngoài, cần xem xét đến các vấn đề chế biến, bảo quản (rất quan trọng trong việc đảm cho việc xúc tiến xuất khẩu sản phẩm tại các thị trường khó tính sau này) và chất lượng và năng lực sản xuất (đảm bảo khả năng cung cấp cho thị trường).

-                Nghiên cứu tính khả thi việc xây dựng phát triển các chỉ dẫn quốc gia đối với các sản phẩm nông sản nổi bật (nước mắm Việt Nam, chè Việt Nam,…).

- Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo hộ ra nước ngoài cho các sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp thông qua các hoạt động thường xuyên hoặc chương trình, đề án;

- Nâng cao năng lực cho các tổ chức tập thể như Hiệp hội, Hợp tác xã để bảo đảm đủ điều kiện năng lực quản lý, kiểm soát các sản phẩm do hội viên sản xuất, kinh doanh. Tập huấn, hỗ trợ cho các nhà sản xuất tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm, vấn đề kiểm soát, truy xuất nguồn gốc, chất lượng theo các yêu cầu của các cơ quan sở hữu trí tuệ nước ngoài;

- Cần tiếp tục có sự vào cuộc, hỗ trợ từ cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan quản lý về nông nghiệp, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, sở hữu trí tuệ để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân để tiến hành thủ tục pháp lý đăng ký bảo hộ ra nước ngoài.

Đặng Phúc Giang

(Trung tâm Phát triển nông thôn/Ipsard)

NỘI DUNG KHÁC

Xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam  tháng 9 năm 2023

12-10-2023

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam tháng 9 năm 2023 ước đạt gần 4,8 tỷ Đô la Mỹ, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 9 tháng đầu năm 2023 đạt 38,48 tỷ Đô la Mỹ, giảm 5,1% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng: nông sản 19,54 tỷ Đô la Mỹ (tăng 16,7%); sản phẩm chăn nuôi 369 triệu Đô la Mỹ (tăng 26,4%); thuỷ sản 6,64 tỷ Đô la Mỹ (giảm 21,7%); lâm sản 10,44 tỷ Đô la Mỹ (giảm 20,6%); đầu vào sản xuất 1,49 tỷ Đô la Mỹ (giảm 20,2%); muối 4,1 triệu Đô la Mỹ (tăng 7%).

Chất lượng thanh long tốt nhưng chưa bán được giá cao thì ai trồng

12-10-2023

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam nêu quan điểm tại Hội nghị 'Phát triển thanh long bền vững ở Việt Nam' ngày 29/9 do Bộ NN-PTNT và UNDP phối hợp tổ chức.

Hoạt động Chuyển đổi số tại Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT

10-10-2023

Ngày 10 tháng 10 hằng năm được lựa chọn là “Ngày Chuyển đổi số quốc gia” theo  Quyết định số 505/QĐTTg ngày 22/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu của ngày này nói riêng cũng như việc thúc đẩy chuyển đổi số trong phạm vi cả nước nói chung là  nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ về chuyển đổi số quốc gia, thực hiện có hiệu quả Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; nâng cao nhận thức của người dân toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa và lợi ích của chuyển đổi số. Đồng thời, thúc đẩy sự tham gia vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn dân bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số.

Một số khuyến nghị chính sách để phát triển loại hình trang trại nông nghiệp có kết hợp dịch vụ du lịch ở Việt Nam

4-10-2023

Trong những năm qua, hoạt động du lịch gắn với nông nghiệp, nông thôn đã được đầu tư khai thác tại nhiều địa phương, hình thành hệ thống sản phẩm du lịch phong phú, đặc thù trải dài từ Bắc tới Nam. Về loại hình du lịch nông thôn, có các loại hình như du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp, du lịch làng nghề… Về tổ chức quản trị du lịch nông thôn, có các mô hình như mô hình hợp tác xã du lịch (như tại Tả Phìn – Sa Pa), mô hình ban quản lý du lịch cộng đồng (như tại thị xã Sa Pa), mô hình tổ hợp tác quản lý theo hướng dịch vụ kinh doanh (như tại huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình), mô hình hội quán du lịch cộng đồng (như tại Đồng Tháp), mô hình câu lạc bộ du lịch (như tại Bến Tre), và mô hình trang trại nông nghiệp có kết hợp dịch vụ du lịch (farmstay).

Xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản ở vùng đặc biệt khó khăn

4-10-2023

Một trong những điểm mới trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2030 là xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản ở vùng đặc biệt khó khăn. Chủ trương này được nhấn mạnh trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 của Đảng và được đưa vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 trong các nghị quyết của Quốc hội và quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bài viết này gợi ý một số vấn đề cần quan tâm về giải pháp chính sách để nâng cao hiệu quả xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản ở vùng đặc biệt khó khăn.

Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam trong đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn

4-10-2023

Ngành nông, lâm, thủy sản là bệ đỡ cho nền kinh tế của Việt Nam, đóng góp 12,6% vào GDP cả nước (2021) và tạo việc làm cho 14,3 triệu lao động, chiếm khoảng 29,1% tổng lao động cả nước (2021). Tuy nhiên, chất lượng lao động nông nghiệp nông thôn vẫn còn thấp, tỷ lệ lao động ngành nông, lâm, thủy sản đã qua đào tạo đạt 4,1% (2021). Năng suất lao động ngành nông, lâm, thủy sản là 74,4 triệu đồng/ lao động (2021), chỉ bằng 62,9% năng suất lao động chung toàn xã hội (118,3 triệu đồng/ lao động). Theo đó, để đáp ứng chất lượng lao động phục vụ nhu cầu phát triển ngành nông, lâm, thủy sản và phát triển kinh tế khu vực nông thôn, đào tạo nghề và tri thức hóa cho người nông dân là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển ngành nông, lâm, thủy sản Việt Nam cũng như nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn. Dưới đây là kinh nghiệm của một số nước trong công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn.

Đổi mới chính sách về phát triển tổ chức khoa học công nghệ công lập trong lĩnh vực Nông nghiệp

4-10-2023

Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 01/11/2012, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã nhấn mạnh phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp.

Cơ sở khoa học về xây dựng Làng thông minh trong Chương trình Nông thôn mới ở Việt Nam

4-10-2023

Phát triển nông nghiệp và nông thôn ở trên thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức của thời đại do xu thế toàn cầu hóa sâu rộng, biến đổi khí hậu ngày càng hiện hữu và cảnh báo các tác động tiêu cực đến đời sống người dân ở khu vực nông thôn nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn do đó đòi hỏi phải đáp ứng thông minh hơn, thân thiện với môi trường hơn. Trong những năm gần đây, khái niệm làng thông minh đã được nhiều quốc gia đề cập, xây dựng mô hình điểm và đưa vào khung chính sách phát triển bền vững nông thôn trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như là một cơ hội và là xu hướng để xây dựng một cuộc sống tốt hơn cho khu vực nông thôn.

Hợp tác xã cần có thêm cơ chế chính sách để phát triển

4-10-2023

VOV.VN - Nguồn vốn, nhân lực và cách quản trị, thị trường tiêu thụ đang là vấn đề đặt ra cho các hợp tác xã không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới.

Hiệu quả sử dụng đất trồng trọt của hộ nông thôn

27-9-2023

Nhóm nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã thực hiện đánh giá hiệu quả sử dụng đất trồng trọt của hộ nông thôn thời gian qua. Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ năm 2010 đến nay, ngành trồng trọt đã tích cực triển khai tái cơ cấu theo hướng xác định cây trồng chủ lực có lợi thế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ hiệu quả thấp sang hiệu quả cao hơn, xây dựng Quy hoạch, đề án, dự án, cơ chế chính sách để thực hiện; đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tổ chức lại sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Kết quả giá trị sản xuất lĩnh vực trồng trọt bình quân giai đoạn 2011-2020 đạt 2,28%/năm, GDP ngành đạt 1,95%/năm.  Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng lĩnh vực chưa bền vững, có xu hướng giảm.

Thực trạng và định hướng phát triển nguồn nhân lực nông lâm thủy sản Việt Nam

27-9-2023

Sản xuất nông nghiệp luôn giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Nông nghiệp là nguồn sinh kế quan trọng và giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn, là nền tảng cho phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, nguồn nhân lực đóng vai trò rất lớn. Việc đào tạo nguồn nhân lực được coi là giải pháp then chốt, là một trong 3 trụ cột chiến lược trong cơ cấu lại phát triển kinh tế đất nước hiện nay. Trong đó, đào tạo nguồn nhân lực có đủ kiến thức, kĩ năng, phẩm chất và thái độ đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nền nông nghiệp thông minh có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và đưa sản phẩm nông nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG NÔNG NGHIỆP: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

27-9-2023

Thích ứng thông minh với biến đổi khí hậu, nông nghiệp thuận thiên là cách mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn để phát triển nông nghiệp bền vững, nông thôn hiện đại. Để đưa Việt Nam trở thành một trong 10 nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, ngành nông nghiệp cần phải chuyển đổi mạnh mẽ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, tập trung nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng cho nông sản thông qua ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới; xây dựng nền nông nghiệp sinh thái hiện đại, xanh-các bon thấp ứng dụng công nghệ cao; nông thôn văn minh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại.