TIN TỨC-SỰ KIỆN

Cơ sở khoa học về xây dựng Làng thông minh trong Chương trình Nông thôn mới ở Việt Nam

Ngày đăng: 04 | 10 | 2023

Phát triển nông nghiệp và nông thôn ở trên thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức của thời đại do xu thế toàn cầu hóa sâu rộng, biến đổi khí hậu ngày càng hiện hữu và cảnh báo các tác động tiêu cực đến đời sống người dân ở khu vực nông thôn nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn do đó đòi hỏi phải đáp ứng thông minh hơn, thân thiện với môi trường hơn. Trong những năm gần đây, khái niệm làng thông minh đã được nhiều quốc gia đề cập, xây dựng mô hình điểm và đưa vào khung chính sách phát triển bền vững nông thôn trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như là một cơ hội và là xu hướng để xây dựng một cuộc sống tốt hơn cho khu vực nông thôn.

 

Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu tổng quan về cơ sở lý luận xây dựng chức năng các trụ cột của mô hình “Làng thông minh” trong mối quan hệ với phát triển nông thôn mới ở Việt Nam, để có cơ sở đề xuất đề xuất cơ chế chính sách phát triển Làng thông minh - Xã kết nối trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2030 nói riêng và phát triển nông thôn thông minh, bền vững nói chung.

Kết quả tổng quan cho thấy, châu Âu định nghĩa làng thông minh là cộng đồng những người dân nông thôn chủ động tìm ra các giải pháp thiết thực đối với những thách thức họ phải đối mặt và quan trọng nắm bắt cơ hội mới làm thay đổi các vùng nông thôn (ENRD, 2018). Làng thông minh là tập hợp các nguồn lực địa phương và ứng dụng kỹ thuật công nghệ nhằm mang lại những lợi ích cho cộng đồng. Trong đó, thông minh (SMART) được hiểu là sự tổng hòa của các yếu tố xã hội (Social), hiện đại (Modern), nhận thức - thích ứng (Aware-adaptation), đáp ứng-sẵn sàng (Responsive-ready) và công nghệ-minh bạch (Technology-transparent). Làng thông minh là cộng đồng ở khu vực nông thôn sử dụng các giải pháp sáng tạo để nâng cao đời sống dựa trên các lợi thế và cơ hội của địa phương với cách tiếp cận có sự tham gia tổng hợp của các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường, đặc biệt là các giải pháp do công nghệ kỹ thuật số; cộng đồng dân cư trong làng được hưởng lợi từ sự liên kết, hợp tác với các khu vực nông thôn và thành thị lân cận; nguồn lực thực hiện các kế hoạch hay sáng kiến của người dân trong làng được huy động tại làng hoặc các tổ chức/cá nhân bên ngoài (EC, 2019).  Vai trò chính của làng thông minh là cung cấp các hoạt động phục lợi xã hội, kinh tế và môi trường bền vững cho cộng đồng, đồng thời giúp người dân trong làng có trách nhiệm hơn trong quản trị địa phương, thúc đẩy quá trình sản xuất và xây dựng cộng đồng bền vững hơn. Phát triển các nguồn năng lượng sạch, tái tạo sẽ làm giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào năng lượng hóa thạch, do vậy sẽ góp phần bảo vệ môi trường của toàn cầu, quản lý bền vững nguồn tài nguyên của công đồng (R. Somwanshi và cộng sự, 2016).  

Dưới góc độ nghiên cứu của các nhà chính sách, các tiêu chí được xác định làng thông minh gồm: (i) Năng lượng thông minh; (ii) Hệ thống kết nối thông minh; (iii) Sản xuất nông nghiệp thông minh; (iv) Giáo dục thông minh; (v) Sức khỏe thông minh; (vi) Môi trường thông minh; (vii) Cơ sở hạ tầng thông minh (P. P. Sahu, 2018). Dưới góc độ xây dựng và phát triển làng thông minh thông qua phân tích dữ liệu lớn. Mười ba tiêu chí chính của làng thông minh được đề xuất và tiến hành tham vấn ý kiến của người dân trong làng gồm: (C1) Cải thiện việc làm; (C2) Tập trung vào hoạt động sản xuất chính là nông nghiệp; (C3) An ninh lương thực; (C4) Bảo tồn nguồn nước; (C5) Bảo tồn nguồn đất; (C6) Loại bỏ ô nhiễm môi trường; (C7) Cơ sở giáo dục; (C8) Cơ sở hạ tầng giao thông; (C9) Đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ; (C10) Mạng wifi được áp dụng rộng rãi; (C11) Nguồn điện được đảm bảo; (C12) Hệ thống máy tính được trạng bị tại các cơ sở giáo dục; (C13) Mạng điện thoại di động. Để bắt kịp những công nghệ trong thời đại 4.0, Pontsho và cộng sự (2020) đã đưa ra bộ 10 tiêu chí với 49 chỉ số xác định làng thông minh, bao gồm: năng lượng (7 chỉ số); dịch vụ viễn thông (6 chỉ số); văn hóa (4 chỉ số); môi trường và sự an toàn (6 chỉ số); kinh tế (5 chỉ số); (vi) nhà ở (4 chỉ số); chăm sóc sức khỏe và giải trí (8 chỉ số); giáo dục (6 chỉ số); tài chính (5 chỉ số); mạng lưới giao thông (7 chỉ số).

Trên cơ sở tổng quan về khung pháp lý, thể chế, chính sách làng thông minh, có thể rút ra kết luận rằng, để đảm bảo phát triển làng thông minh (chính quyền thông minh, kinh tế thông minh, xây dựng thương hiệu thông minh, lối sống thông minh, xã hội thông minh và môi trường thông minh) cần phải có sự kết hợp giữa kiến thức truyền thống của người dân, cộng đồng trong làng cùng với công nghệ phù hợp để thúc đẩy nâng cao hiệu quả can thiệp chính sách hướng đến mục tiêu đảm bảo đời sống dân sinh, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nâng cao mức sống, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đảm bảo an ninh an toàn và môi trường cảnh quan nông thôn.

Thực tiễn thí điểm mô hình làng thông minh của một số địa phương trong nước cho thấy, mô hình làng thông minh ở Bình Dương có nhiều tiêu chí gắn với làng thông minh nhất. Tuy nhiên, nếu chiếu theo các tiêu chí làng thông minh của EU, Ấn Độ, Trung Quốc hay Indonexia thì các mô hình thí điểm mới giải quyết được một phần của tiêu chí làng thông minh. Do vậy, cần phải có những thử nghiệm mô hình có tính bao trùm hơn để làm căn cứ xây dựng chính sách nhân rộng trên cả nước.

Để thúc đẩy làng thông minh toàn diện phải đảm bảo các trụ cột phát triển làng, gồm: chính quyền thông minh, hạ tầng thông minh, thực thi pháp luật thông minh, con người thông minh, kinh tế thông minh, công nghệ phù hợp, xây dựng thương hiệu thông minh, lối sống thông minh, xã hội thông minh và môi trường thông minh. Cần có một bộ tiêu chí cứng và tiêu chí mềm (tùy thuộc vào điều kiện của làng) dựa trên các trụ cột làng thông minh để hướng dẫn xây dựng thí điểm trên diện rộng mô hình làng thông minh trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025. Việc áp dụng mô hình làng thông minh sẽ thúc đẩy quá trình thực hiện các mục tiêu của Đảng, Nhà nước trong phát triển nông thôn, giúp áp dụng hài hòa giữa công nghệ hiện đại và kiến thức địa phương cho mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Làng thông minh không thể tách rời khung cơ chế, chính sách cho phát triển nông thôn mới và định hướng phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, nông dân văn minh và khu vực nông thôn đáng sống.

Lê Trọng Hải, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn.

Trích lược từ Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 429 năm 2022 (trang 102 đến112).

 

NỘI DUNG KHÁC

Hợp tác xã cần có thêm cơ chế chính sách để phát triển

4-10-2023

VOV.VN - Nguồn vốn, nhân lực và cách quản trị, thị trường tiêu thụ đang là vấn đề đặt ra cho các hợp tác xã không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới.

Hiệu quả sử dụng đất trồng trọt của hộ nông thôn

27-9-2023

Nhóm nghiên cứu của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã thực hiện đánh giá hiệu quả sử dụng đất trồng trọt của hộ nông thôn thời gian qua. Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ năm 2010 đến nay, ngành trồng trọt đã tích cực triển khai tái cơ cấu theo hướng xác định cây trồng chủ lực có lợi thế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ hiệu quả thấp sang hiệu quả cao hơn, xây dựng Quy hoạch, đề án, dự án, cơ chế chính sách để thực hiện; đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tổ chức lại sản xuất; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Kết quả giá trị sản xuất lĩnh vực trồng trọt bình quân giai đoạn 2011-2020 đạt 2,28%/năm, GDP ngành đạt 1,95%/năm.  Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng lĩnh vực chưa bền vững, có xu hướng giảm.

Thực trạng và định hướng phát triển nguồn nhân lực nông lâm thủy sản Việt Nam

27-9-2023

Sản xuất nông nghiệp luôn giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Nông nghiệp là nguồn sinh kế quan trọng và giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn, là nền tảng cho phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, nguồn nhân lực đóng vai trò rất lớn. Việc đào tạo nguồn nhân lực được coi là giải pháp then chốt, là một trong 3 trụ cột chiến lược trong cơ cấu lại phát triển kinh tế đất nước hiện nay. Trong đó, đào tạo nguồn nhân lực có đủ kiến thức, kĩ năng, phẩm chất và thái độ đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nền nông nghiệp thông minh có vai trò quan trọng, mang tính quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và đưa sản phẩm nông nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG NÔNG NGHIỆP: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

27-9-2023

Thích ứng thông minh với biến đổi khí hậu, nông nghiệp thuận thiên là cách mà rất nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn để phát triển nông nghiệp bền vững, nông thôn hiện đại. Để đưa Việt Nam trở thành một trong 10 nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, ngành nông nghiệp cần phải chuyển đổi mạnh mẽ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, tập trung nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng cho nông sản thông qua ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mới; xây dựng nền nông nghiệp sinh thái hiện đại, xanh-các bon thấp ứng dụng công nghệ cao; nông thôn văn minh, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại.

Chuỗi nông sản quá lỏng lẻo: Cần chế tài gắn kết

27-9-2023

Thời gian gần đây, nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu nông sản lại dấy lên bức xúc về tình trạng tranh mua tranh bán, “bẻ cọc, bẻ kèo”, loạn giá…Vấn nạn này gây nguy cơ và hệ lụy rất lớn, ảnh hưởng đến chất lượng, uy tín và thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường xuất khẩu…

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI KIỂU MẪU Ở CẤP HUYỆN

27-9-2023

Xây dựng nông thôn mới “có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc”. Sau khi đạt chuẩn nông thôn mới, các xã, huyện cần tiếp tục hướng tới xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Đó là quan điểm được đề cập đến trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Quốc hội, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025. Hiện nay, nông thôn mới đạt chuẩn và nâng cao đã có các tiêu chí cụ thể ở cấp xã và cấp huyện, tuy nhiên nông thôn mới kiểu mẫu mới có quy định áp dụng đối với cấp xã, còn nông thôn mới kiểu mẫu ở cấp huyện chưa có quy định cụ thể mà mới chỉ đang triển khai thí điểm tại 04 huyện: huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định); huyện Nam Đàn (tỉnh Nghệ An); huyện Đơn Dương (tỉnh Lâm Đồng); huyện Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai). Bài viết này bàn luận một số vấn đề nhằm gợi ý cho việc xây dựng quy định/hướng dẫn xây dựng huyện nông thôn mới kiểu mẫu.

8 giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã

27-9-2023

Ngày 20/6/2023, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Luật Hợp tác xã (HTX) sửa đổi và Luật HTX sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.

Hội nghị triển khai cập nhật và đồng bộ dữ liệu cán bộ công chức viên chức

13-9-2023

Ngày 13/9/2023, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức Hội nghị Hướng dẫn cập nhật và đồng bộ dữ liệu Cán bộ công chức viên chức, do Vụ Tổ chức Cán bộ và Trung tâm chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp phối hợp với VNPT tổ chức. Hội nghị có sự tham dự của đại diện Tổ công tác 06 - Bộ Nội vụ.

Xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực trồng trọt, thủy sản

22-9-2023

Phát triển nông nghiệp của Việt Nam thời gian quan đạt được nhiều thành tựu nổi bật và có vai trò ngày càng quan trọng, đóng góp chung vào phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Việt Nam hiện là một trong các quốc gia xuất khẩu sản phẩm nông sản hàng đầu thế giới với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2022 đạt trên 53 tỷ Đô la Mỹ, sản phẩm nông sản tiếp cận đến gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó đóng góp lớn của ngành trồng trọt và thủy sản. Để đáp ứng yêu cầu của ngày càng cao về chất lượng sản phẩm sản phẩm nông sản của thị trường trong nước và quốc tế, công tác xây dựng Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia có ý nghĩa quan trọng với nâng cao năng suất và chất lượng, thương mại quốc tế và hội nhập, và nâng cao chất lượng đời sống, sức khỏe con người.

Thực trạng và Nguyên nhân hàng nông sản xuất khẩu vẫn gặp tình trạng bị trả về?

22-9-2023

Việt Nam là nước xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn trên thế giới, năm 2022 xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới. Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2022, xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 53,22 tỷ Đô la Mỹ, tăng 9,3% so với năm 2021; trong đó nông sản chính đạt 22,59 tỷ Đô la Mỹ, tăng 4,8 %; lâm sản chính đạt 16,93 tỷ Đô la Mỹ, tăng 6,1%; thủy sản đạt 10,92 tỷ Đô la Mỹ, tăng 22,9%; chăn nuôi đạt 400 triệu Đô la Mỹ, giảm 7,1%. Tiếp tục có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1,0 tỷ Đô la Mỹ, trong đó có 08 sản phẩm/nhóm sản phẩm kim ngạch trên 02 tỷ Đô la Mỹ (cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, cá tra, sản phẩm gỗ), bao gồm 07 mặt hàng có kim ngạch trên 03 tỷ Đô la Mỹ (gỗ và sản phẩm gỗ đạt 15,85 tỷ Đô la Mỹ; tôm 4,33 tỷ Đô la Mỹ; cà phê 3,94 tỷ Đô la Mỹ; gạo 3,49 tỷ Đô la Mỹ; cao su 3,31 tỷ Đô la Mỹ; rau quả 3,34 tỷ Đô la Mỹ; hạt điều 3,07 tỷ Đô la Mỹ). Thặng dư thương mại toàn ngành ước đạt 8,5 tỷ Đô la Mỹ, tăng 30% so với năm 2022.

Hội thảo Đối thoại đa bên về thị trường các-bon ngành nông nghiệp

21-9-2023

Lĩnh vực Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Sử dụng đất (AFOLU) có vai trò rất quan trọng đối với ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngoài đảm bảo an ninh lương thực, các giá trị môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học thì lĩnh vực AFOLU còn có vị trí quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính, hấp thụ các-bon đảm bảo cho lộ trình thực hiện cam kết Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC, 2022); cam kết cắt giảm 30% khí mê-tan so với lượng phát thải khí mê-tan 2020 và cam kết đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam tại COP 26. Những cam kết này đòi hỏi Việt Nam phải tham gia sâu và thực chất hơn nữa vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính chung của toàn cầu.

Phát triển khoa học, đổi mới, sáng tạo và chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp tại tỉnh Sơn La

22-9-2023

Trong giai đoạn 2013-2023, tỉnh Sơn La đã có nhiều nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và sản phẩm hàng hóa chủ lực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2022, tỉnh đã duy trì phát triển 235 chuỗi cung ứng thực phẩm nông sản, thủy sản an toàn, 241 vùng trồng với diện tích là 3600ha. Thông qua nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, tỉnh đã lựa chọn được nhiều giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế, phù hợp với điều kiện tự nhiên và sản xuất của tỉnh. Nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, mở rộng diện tích tại chỗ và nhân rộng sang các vùng lân cận. Nhiều sản phẩm được xây dựng thương hiệu và có chỗ đứng trên thị trường tạo nên các vùng sản xuất hàng hóa nông sản tập trung, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.