TIN TỨC-SỰ KIỆN

8 giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã

Ngày đăng: 27 | 09 | 2023

Ngày 20/6/2023, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Luật Hợp tác xã (HTX) sửa đổi và Luật HTX sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.

 

 Ngày 20/6/2023, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Luật Hợp tác xã (HTX) sửa đổi và Luật HTX sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2024.

Một trong những điểm mới, nổi bật của Luật HTX (sửa đổi) này là đã thể chế hóa nội dung 8 chính sách tại Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. 
Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp và phát t PTNT, Luật HTX sửa đổi đã bổ sung khoản 2 và khoản 4 Điều 25 quy định hỗ trợ tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX liên kết hình thành vùng nguyên liệu, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, áp dụng và chứng nhận các tiêu chuẩn để phát triển thị trường; hỗ trợ hình thành sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ có nguồn gốc địa phương, có đặc trưng về giá trị kinh tế, văn hóa, lợi thế của địa phương.

Mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng, nhà lưới tại Hợp tác xã Tân Minh Đức (Gia Lộc). Ảnh Hải Ninh

Để phát triển hiệu quả KTTT, HTX và nâng cao vai trò vị thế của HTX đối với phát triển nông nghiệp nông thôn, các nhiệm vụ và giải pháp sau cần được triển khai đồng bộ gồm:
Nhóm giải pháp về chính sách
Một là, xây dựng mô hình HTX nông nghiệp phát triển bền vững, hoạt động hiệu quả, phù hợp điều kiện đặc thù từng lĩnh vực, ngành hàng và địa phương: Các địa phương cần tập trung nguồn lực xây dựng đa dạng các mô hình mô hình HTX nông nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả phù hợp điều kiện đặc thù từng lĩnh vực, ngành hàng, từng địa phương, đáp ứng xu thế thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ưu tiên hỗ trợ phát triển các mô hình HTX nông nghiệp gắn với vùng sản xuất nguyên liệu đạt chuẩn, quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu ổn định của doanh nghiệp, người tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu; tạo điều kiện thúc đẩy hình thành liên kết chuỗi giá trị nông sản ổn định. Khi xây dựng các mô hình HTX cần gắn với việc ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất kinh doanh và quản lý hợp tác xã, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo minh bạch thông tin và an toàn thực phẩm; đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực sản xuất, phân loại, sơ chế và dịch vụ hậu cần của HTX.
Hai là, rà soát, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn về cơ chế, chính sách cho HTX nông nghiệp: Rà soát tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và kịp thời đề xuất, sửa đổi cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho HTX nông nghiệp hoạt động và phát triển, đặc biệt quan tâm đến các nhóm chính sách sau:
Chính sách đất đai: i) Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các HTX nông nghiệp tích tụ đất đai cho sản xuất kinh doanh để hình thành vùng nguyên liệu tập trung có quy mô lớn, phát triển liên kết sản xuất, sơ chế, chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị ổn định; ii) Hỗ trợ, hướng dẫn HTX nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất xây dựng hạ tầng (kho tàng, nhà xưởng, cơ sở sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, sản phẩm).
Chính sách thuế, phí và lệ phí: Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế, lệ phí từ các hoạt động dịch vụ của HTX phục vụ thành viên; có chính sách ưu đãi đối với HTX hoạt động ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; HTX sử dụng nhiều lao động nữ, lao động khuyết tật, nhiều thành viên là người khuyết tật, thành viên là người dân tộc thiểu số; hỗ trợ phí kiểm toán HTX; hỗ trợ mở rộng việc mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội; hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp thông qua HTX.
Chính sách tín dụng: i) Cải tiến, đổi mới thủ tục, điều kiện tín dụng để từng bước mở rộng và tăng cường hỗ trợ vốn cho HTX nông nghiệp; ưu tiên HTX tham gia chuỗi giá trị nông sản hàng hóa, gắn với bảo hiểm nông nghiệp; HTX nông nghiệp vay vốn theo dự án sản xuất, kinh doanh nông nghiệp có hiệu quả; ii) Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích mở rộng hoạt động tín dụng nội bộ trong từng HTX nông nghiệp; nghiên cứu ban hành khung pháp lý về hoạt động tín dụng nội bộ cho HTX nông nghiệp tổ chức và hoạt động; iii) Nghiên cứu bổ sung chức năng của các Quỹ hỗ trợ phát triển HTX gắn với nhiệm vụ hỗ trợ, phát triển HTX và các chức năng khác như: bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất vay vốn, hỗ trợ HTX ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao; đổi mới sáng tạo; khởi nghiệp HTX nông nghiệp phù hợp với tình hình thực tế, năng lực tài chính, quản trị điều hành và hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX.
Chính sách khoa học, công nghệ: i) Ưu tiên hỗ trợ HTX nông nghiệp tham gia chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, có trách nhiệm và bền vững, ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc, quy trình sản xuất an toàn thực phẩm, phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn, giảm thất thoát thực phẩm, chế biến phụ phẩm của sản phẩm nông nghiệp, vệ sinh môi trường và làm đẹp cảnh quan nông thôn; ii) Khuyến khích, hỗ trợ HTX nông nghiệp tham gia phát triển vùng nguyên liệu, hình thành liên kết chuỗi giá trị ngành hàng nông sản; ưu tiên cấp mã số vùng trồng, mã số vùng nuôi gắn với phát triển vùng nguyên liệu và truy xuất nguồn gốc sản phẩm; các chương trình, đề án, dự án phát triển chế biến quy mô nhỏ và vừa; đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng, máy móc thiết bị: Bố trí nguồn lực hỗ trợ HTX nông nghiệp về đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến và thương mại sản phẩm như: đường giao thông nội vùng sản xuất; các công trình thủy lợi; xây dựng các khu tập kết, thu gom phân loại, đóng gói, sơ chế, nông sản nguyên liệu tập trung ở các vùng nguyên liệu trước khi chuyển đến nhà máy chế biến hoặc xuất khẩu; hỗ trợ mua sắm trang thiết bị, máy móc phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX nông nghiệp.
Ba là, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho phát triển KTTT, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp: i) Lồng ghép nội dung hỗ trợ HTX vào các chương trình, đề án phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn; công tác xây dựng mô hình HTX nông nghiệp điển hình; công tác tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện quản lý nhà nước và hỗ trợ HTX nông nghiệp; bố trí nguồn lực hỗ trợ phát triển KTTT, HTX nông nghiệp ở địa phương; ii) Quan tâm, hỗ trợ xây dựng và phát triển các loại hình hợp tác khác trong lĩnh vực nông nghiệp như: Các câu lạc bộ của người sản xuất; hội quán; tổ hợp tác; nhóm, đội cùng sở thích; tạo điều kiện để nông dân, người sản xuất tìm hiểu, trao đổi thông tin, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, xây dựng lòng tin trong hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; iii) Thúc đẩy phát triển mạng lưới khuyến nông cộng đồng; lấy HTX làm nòng cốt cho chương trình tri thức hoá nông dân; xây dựng các hệ sinh thái (gồm các tổ chức, cá nhân như doanh nghiệp, ngân hàng, quỹ tín dụng, chuyên gia tư vấn, khuyến nông viên, kỹ thuật viên, người tiêu thụ…) làm công tác tư vấn, vận động nông dân vào HTX, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi số hiệu quả, bền vững.
Bốn là, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực quản trị cho cán bộ quản lý, thành viên HTX nông nghiệp: i) Nghiên cứu đưa nội dung đào tạo HTX nông nghiệp vào chương trình của các trường cao đẳng, đại học, các trường nghề và học viện chính trị; đào tạo, bồi dưỡng phát triển lực lượng khuyến nông cộng đồng, chuyên gia tư vấn phát triển HTX nông nghiệp; ii) Tập trung xây dựng và triển khai kế hoạch nâng cao chất lượng đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng trình độ, kỹ năng quản lý HTX nông nghiệp thông qua các chương trình đào tạo, huấn luyện nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn; phát triển lực lượng, chuyên gia tư vấn, hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp, lực lượng khuyến nông cộng đồng ở cơ sở (cấp huyện, xã) để thường xuyên tư vấn, hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp; iii) Khuyến khích doanh nghiệp tham gia liên kết hỗ trợ nhân lực quản trị sản xuất, kinh doanh cho HTX nông nghiệp; hợp tác, liên kết đưa cán bộ quản lý, lao động làm việc trong các HTX nông nghiệp đi học tập, lao động tại nước ngoài; iv) Rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách tạo động lực để thu hút lao động trẻ, sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học về làm việc tại các HTX nông nghiệp để tăng cường năng lực quản trị, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh và tham gia khởi nghiệp cùng HTX nông nghiệp.

Mô hình trồng hoa lan Hồ điệp công nghệ cao tại Trung tâm Ứng dụng và Dịch vụ khoa học công nghệ tỉnh Bắc Ninh. Ảnh Huy Hoàng

Nhóm giải pháp khác
Năm là, đẩy mạnh thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển KTTT, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp: i) Khuyến khích mọi thành phần kinh tế hợp tác, liên kết đầu tư, chia sẻ nguồn lực, kinh nghiệm hỗ trợ phát triển KTTT, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.  Doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiêp nhà nước có cơ chế ưu tiên hỗ trợ hợp tác đầu tư, liên kết với HTX nông nghiệp trong phát triển vùng nguyên liệu, cung ứng vật tư đầu vào, khuyến nông-khuyến lâm-khuyến ngư, áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, xúc tiến thương mại, liên kết tiêu thụ sản phẩm; ii) Căn cứ điều kiện cụ thể, các bộ, ban, ngành, địa phương rà soát, bổ sung xây dựng cơ chế, chính sách, kế hoạch và giải pháp thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển KTTT, HTX nông nghiệp giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Ưu tiên cân đối, bố trí vốn từ nguồn vốn các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 và các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được giao để thực hiện các chương trình, đề án, dự án và nhiệm vụ hỗ trợ, phát triển KTTT, HTX nông nghiệp.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về kiểm tra, giám sát và hỗ trợ phát triển KTTT, HTX nông nghiệp: i) Củng cố tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về KTTT, HTX nông nghiệp ở Trung ương và địa phương; bố trí tổ chức, công chức, viên chức đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao quản lý nhà nước về KTTT, HTX nông nghiệp, tránh tình trạng không có tổ chức hoặc cán bộ chuyên trách theo dõi về KTTT, HTX nông nghiệp; ii) Thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm tôn vinh, khen thưởng các HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả, các địa phương và các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp hỗ trợ phát triển KTTT, HTX nông nghiệp.
Bảy là, nâng cao vai trò các cấp ủy đảng, chính quyền, Liên minh HTX Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp: i) Nâng cao vai trò các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và hỗ trợ phát triển bền vững HTX nông nghiệp gắn với không ngừng nâng cao đời sống người nông dân và văn minh hóa nông thôn. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ các cấp; đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị các cấp ở địa phương vào hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp theo định hướng đã được thống nhất về bản chất và mô hình HTX nông nghiệp; ii) Tăng cường gắn kết với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Hội đoàn thể chính trị và Liên minh HTX Việt Nam cùng hỗ trợ phát triển HTX nông nghiệp; tăng cường các chương trình phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan, đoàn thể chính trị và hệ thống và Liên minh HTX Việt Nam trong tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân tham gia thành viên và phát triển HTX nông nghiệp. Tạo dựng các hệ sinh thái hỗ trợ, tư vấn phát triển KTTT, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tám là, truyền thông, nâng cao nhận thức về bản chất, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển KTTT, HTX trong quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới: i) Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức cho cán bộ, cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức kinh tế - xã hội và người dân về bản chất, vị trí và trò và tầm quan trọng của việc củng cố, xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp gắn với thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; ii) Xây dựng nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng đối tượng, bảo đảm thiết thực hiệu quả với các hình thức đa dạng, phong phú. Nghiên cứu, tài liệu hóa các mô hình điển hình, các bài học hay để tuyên truyền; kịp thời khen thưởng, tôn vinh và nhân rộng các mô hình KTTT, HTX nông nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả và phát triển bền vững.

TS. Nguyễn Tiến Định - Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Bộ NN&PTNT

NỘI DUNG KHÁC

Hội nghị triển khai cập nhật và đồng bộ dữ liệu cán bộ công chức viên chức

13-9-2023

Ngày 13/9/2023, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức Hội nghị Hướng dẫn cập nhật và đồng bộ dữ liệu Cán bộ công chức viên chức, do Vụ Tổ chức Cán bộ và Trung tâm chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp phối hợp với VNPT tổ chức. Hội nghị có sự tham dự của đại diện Tổ công tác 06 - Bộ Nội vụ.

Xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực trồng trọt, thủy sản

22-9-2023

Phát triển nông nghiệp của Việt Nam thời gian quan đạt được nhiều thành tựu nổi bật và có vai trò ngày càng quan trọng, đóng góp chung vào phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Việt Nam hiện là một trong các quốc gia xuất khẩu sản phẩm nông sản hàng đầu thế giới với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2022 đạt trên 53 tỷ Đô la Mỹ, sản phẩm nông sản tiếp cận đến gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó đóng góp lớn của ngành trồng trọt và thủy sản. Để đáp ứng yêu cầu của ngày càng cao về chất lượng sản phẩm sản phẩm nông sản của thị trường trong nước và quốc tế, công tác xây dựng Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia có ý nghĩa quan trọng với nâng cao năng suất và chất lượng, thương mại quốc tế và hội nhập, và nâng cao chất lượng đời sống, sức khỏe con người.

Thực trạng và Nguyên nhân hàng nông sản xuất khẩu vẫn gặp tình trạng bị trả về?

22-9-2023

Việt Nam là nước xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn trên thế giới, năm 2022 xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới. Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2022, xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 53,22 tỷ Đô la Mỹ, tăng 9,3% so với năm 2021; trong đó nông sản chính đạt 22,59 tỷ Đô la Mỹ, tăng 4,8 %; lâm sản chính đạt 16,93 tỷ Đô la Mỹ, tăng 6,1%; thủy sản đạt 10,92 tỷ Đô la Mỹ, tăng 22,9%; chăn nuôi đạt 400 triệu Đô la Mỹ, giảm 7,1%. Tiếp tục có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1,0 tỷ Đô la Mỹ, trong đó có 08 sản phẩm/nhóm sản phẩm kim ngạch trên 02 tỷ Đô la Mỹ (cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, cá tra, sản phẩm gỗ), bao gồm 07 mặt hàng có kim ngạch trên 03 tỷ Đô la Mỹ (gỗ và sản phẩm gỗ đạt 15,85 tỷ Đô la Mỹ; tôm 4,33 tỷ Đô la Mỹ; cà phê 3,94 tỷ Đô la Mỹ; gạo 3,49 tỷ Đô la Mỹ; cao su 3,31 tỷ Đô la Mỹ; rau quả 3,34 tỷ Đô la Mỹ; hạt điều 3,07 tỷ Đô la Mỹ). Thặng dư thương mại toàn ngành ước đạt 8,5 tỷ Đô la Mỹ, tăng 30% so với năm 2022.

Hội thảo Đối thoại đa bên về thị trường các-bon ngành nông nghiệp

21-9-2023

Lĩnh vực Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Sử dụng đất (AFOLU) có vai trò rất quan trọng đối với ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngoài đảm bảo an ninh lương thực, các giá trị môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học thì lĩnh vực AFOLU còn có vị trí quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính, hấp thụ các-bon đảm bảo cho lộ trình thực hiện cam kết Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC, 2022); cam kết cắt giảm 30% khí mê-tan so với lượng phát thải khí mê-tan 2020 và cam kết đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam tại COP 26. Những cam kết này đòi hỏi Việt Nam phải tham gia sâu và thực chất hơn nữa vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính chung của toàn cầu.

Phát triển khoa học, đổi mới, sáng tạo và chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp tại tỉnh Sơn La

22-9-2023

Trong giai đoạn 2013-2023, tỉnh Sơn La đã có nhiều nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và sản phẩm hàng hóa chủ lực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2022, tỉnh đã duy trì phát triển 235 chuỗi cung ứng thực phẩm nông sản, thủy sản an toàn, 241 vùng trồng với diện tích là 3600ha. Thông qua nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, tỉnh đã lựa chọn được nhiều giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế, phù hợp với điều kiện tự nhiên và sản xuất của tỉnh. Nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, mở rộng diện tích tại chỗ và nhân rộng sang các vùng lân cận. Nhiều sản phẩm được xây dựng thương hiệu và có chỗ đứng trên thị trường tạo nên các vùng sản xuất hàng hóa nông sản tập trung, phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.

Hội thảo quốc tế Luật Hợp tác xã 2023 và những định hướng chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã

22-9-2023

Ngày 19/9/2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Tổ chức Liên đoàn Hợp tác xã Raiffeisen, Cộng hòa liên bang Đức (DGRV) tổ chức Hội thảo quốc tế “Luật Hợp tác xã năm 2023 và những định hướng chính sách hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã” dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Đỗ Thành Trung.

Đề nghị sửa một số văn bản của Trung ương về xây dựng nông thôn mới

20-9-2023

Đại diện các sở, ngành cũng đề nghị Trung ương xem xét, tạo điều kiện hỗ trợ Hà Tĩnh nguồn kinh phí để thực hiện Đề án thí điểm tỉnh đạt chuẩn NTM theo Quyết định 2114/QĐ-TTg ngày 16/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Lúa gạo và vấn đề an ninh lương thực tại Việt Nam

14-9-2023

Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn Trần Công Thắng nêu bật vai trò của lúa gạo đối với an ninh lương thực tại Việt Nam.

TỌA ĐÀM “PHÁT HUY VAI TRÒ CỘNG ĐỒNG TRONG THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN”

16-8-2023

Báo Nông nghiệp Việt Nam truyền trực tiếp buổi Tọa đàm “Phát huy vai trò cộng đồng trong thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn” dưới sự điều hành của Bộ trưởng Lê Minh Hoan; Ông Cao Đức Phát, Chủ tịch Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) cùng Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các Tổ chức quốc tế: JICA, UNDP, Ngân hàng Thế giới, FAO, ACIAR, IFAD, ADB, CIAT, IRRI, Helvetas, Quỹ Saemaul, ICRAF…

Nghiên cứu và đề xuất giải pháp phục hồi sinh kế cho hộ nông dân trồng xoài ở ĐBSCL trong bối cảnh đại dịch COVID-19

29-3-2023

Sản xuất trái cây là một ngành hàng chiến lược của nông nghiệp Việt Nam. Trong 5 năm qua, sản xuất và xuất khẩu trái cây đã tăng liên tục, đóng góp đáng kể vào giá trị xuất khẩu nông sản, giúp đa dạng sinh kế cho nông dân và đặc biệt góp phần vào thành công của tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Hoạt động chào mừng Ngày quốc tế Phụ nữ 8/3

8-3-2023

Tháng 3 - ngân vang khúc giao mùa, mang theo những cảm xúc mới của mùa xuân rực rỡ cũng như không khí hân hoan chào đón ngày lễ 8/3, ngày của chị em trên khắp mọi miền đất nước cũng như trên toàn thế giới. oà chung không khí vui tươi, rộn ràng ấy, ngày 7/3/2023, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển NNNT tổ chức chuỗi hoạt động chào mừng Ngày quốc tế Phụ nữ 8/3; tiến tới Đại hội Công đoàn Viện 17/3/2023 và Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3/1931 - 26/3/2023. Chương trình diễn ra hết sức sôi nổi với sự góp mặt của toàn thể Ban Lãnh đạo Viện, các cán bộ, viên chức và người lao động. Dưới sự quan tâm, hưởng ứng nhiệt tình của toàn thể cán bộ, Chương trình đã thành công rực rỡ.