TIN TỨC-SỰ KIỆN

Những ghi chú về kinh tế Việt Nam trong sổ tay

Ngày đăng: 31 | 12 | 2007

Tôi đã định viết một bài nhằm đánh giá chất lượng nền kinh tế của Nhà nước hiện nay. Nhưng rồi thấy đề tài như thế cần nhiều số liệu thống kê mà hệ thống quản lý nhà nước vẫn chưa làm hoặc có làm nhưng chưa công bố đầy đủ, vậy chỉ có thể trình bày các ghi chú.

Vấn đề thông tin thống kê

Lạm phát đã lên tới 2 con số
So với trước đây, có thể thấy một số chuyển đổi khá tốt về việc cung cấp thông tin của Tổng cục Thống kê, tuy nhiên các ngành khác vẫn bình chân như vại. Mạng Ngân hàng Nhà nước gần như không có thông tin. Đành phải dùng số liệu về tiền tệ tín dụng Việt Nam nộp cho IMF, hoặc ADB nhưng rồi gặp vấn nạn mỗi nguồn một phách.

Có lẽ những nơi này phải sử dụng một số số liệu được cung cấp, tìm thêm số liệu từ các nguồn khác và rồi tự tính. Vẫn không hiểu tại sao thông tin về tiền tệ tín dụng, Ngân hàng Nhà nước chỉ ưu ái cho tổ chức và người nước ngoài nhưng lại giữ bí mật với dân đến thế.

Mạng của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có khá hơn một chút, có một số các văn bản, nhưng muốn theo dõi thông tin có tính chất tổng hợp thì không biết tìm ở đâu. Không hiểu nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp thông tin về thị trường chứng khoán thuộc về ai: Ngân hàng Nhà nước như ở Mỹ hay Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Cứ theo nhiệm vụ được giao cho ủy ban này là “thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán…” và “tổ chức nghiên cứu khoa học về chứng khoán và thị trường chứng khoán” thì ắt nhiệm vụ thu thập thống kê về thị trường chứng khoán phải thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

Tìm thông tin hàng ngày về chứng khoán thì phải đến các sàn giao dịch riêng như ở TPHCM và Hà Nội là đương nhiên, nhưng đây không phải là nơi thu thập mà chỉ là nơi phải cấp thông tin để Nhà nước nắm tình hình, chẳng hạn như về giá trị cổ phiếu mà người nước ngoài hiện nắm giữ. Những thông tin này cực kỳ cần thiết để Nhà nước ra quyết sách. Việc rút khỏi thị trường của vốn nước ngoài có thể làm tê liệt nền kinh tế.

Nói về thông tin thì không phải chỉ xem có thông tin hay không mà cũng phải duyệt qua chất lượng thông tin. Bộ Tài chính có khẩu hiệu khá ấn tượng “công khai ngân sách nhà nước” trên mạng của bộ. Các nước thường công bố thu chi ngân sách tạm kết toán ngay sau năm tài khóa, để so với dự toán, rồi sau đó điều chỉnh dần cho đến khi có quyết toán (ngay ở châu Âu, nhiều nước tiếp tục điều chỉnh ít nhất là năm năm sau đó, không phải chỉ vì các khoản chi thu cần được làm sáng tỏ mà còn vì sự thay đổi của nguyên tắc kế toán).

Ở nước ta, Bộ Tài chính mới chỉ quyết toán năm 2005 vào gần cuối năm 2007, tức là gần hai năm sau mới đưa ra số liệu. Tuy vậy, số liệu năm 2005 này giúp ta thấy được một tình trạng khá kinh ngạc mà hình như chưa ai để ý tới: đó là sự khác biệt lớn giữa quyết toán và dự toán.

Thí dụ năm 2005, quyết toán chi là 313.000 tỉ so với dự toán chi do Quốc hội định là 230.000 tỉ, cao hơn 36%, (nếu trừ đi phần đã xuất quỹ nhưng chuyển sang năm tới để chi thì quyết toán chi vẫn cao hơn dự toán là 28%). Đây một con số quá lớn làm ta phải đánh dấu hỏi về khả năng kiểm soát thu chi nhà nước của Quốc hội.

Kể ra, công khai như thế cũng đã là bước tiến “nhảy vọt” kể từ sau đổi mới bởi trước đó ngân sách là bí mật quốc gia. Tuy nhiên, bộ cũng cần thêm bước “tiểu nhảy vọt” nữa vì trong ngân sách hiện nay vẫn có đến 12-15% ngân sách chi cho sự nghiệp suốt từ năm 2000 đến nay không biết chi vào đâu. Ngoài ra mỗi năm lại còn một phần khá mù mờ, đó là phần đã xuất quỹ nhưng chưa quyết toán, năm nào cũng lớn, thí dụ năm 2004 lên tới 9% chi ngân sách. Nói tóm lại, số liệu cho thấy có trên 20% chi ngân sách chưa có lời giải thích.

Số liệu về lao động có việc làm là thông tin quan trọng để đánh giá chất lượng kinh tế, và nhằm theo dõi sát sao tình hình kinh tế. Các nước thường xuất bản số liệu này hàng tháng, còn Tổng cục Thống kê chỉ điều tra hàng năm vào tháng 7, nhưng số liệu công bố vào lúc này trên mạng thì chỉ có đến năm 2004.

Khởi sắc và vấn đề mới phải đối mặt

Tốc độ tăng GDP có thể nói là khởi sắc. Nợ nước ngoài thấp. Khả năng trả nợ không có vấn đề. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã mở rộng thêm khả năng gắn bó và mở rộng thị trường với kinh tế thế giới mà không còn bị vấn đề chính trị ngăn cản.

Sự hồ hởi của người nước ngoài với nền kinh tế Việt Nam là chưa từng thấy. Điều này đã phản ánh qua luồng ngoại tệ đổ vào Việt Nam cao nhất từ xưa đến nay từ đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp qua việc mua cổ phiếu và trái phiếu Việt Nam. Khi số liệu thống kê năm 2007 được thu thập đầy đủ, ta sẽ thấy rõ vấn đề này hơn.

Năm 2007, số ngoại tệ đưa vào Việt Nam mà Ngân hàng Nhà nước mua vào đã lên tới 9 tỉ USD hoặc hơn. Chính vì vậy, Việt Nam đang cố tìm cách quản lý tình hình phức tạp này. Ngoại tệ vào nhiều tạo ra hai vấn đề. Số cung ngoại tệ nhiều sẽ làm ngoại tệ mất giá, hay nói khác đi, tiền đồng lên giá đối với ngoại tệ.

Vấn đề thứ hai là việc phát hành tiền đồng để đổi ngoại tệ sang tiền đồng đã làm tăng số cung tiền đồng trên thị trường. Điều này nếu không có biện pháp xử lý nhằm triệt tiêu số tiền đồng trên sẽ làm lạm phát nhảy vọt. Không thể phát hành trái phiếu nhà nước vì tiền thu về, Bộ Tài chính sẽ đem ra chi, làm tăng áp lực lạm phát.

Thực tế trong tình hình hiện nay là phải giảm chi của Bộ Tài chính. Như vậy, chỉ có Ngân hàng Nhà nước mới có thể làm việc triệt tiêu tiền trên thị trường bằng cách phát hành trái phiếu ngân hàng thu tiền về và giữ trong kho.

Vấn đề phát hành tiền đồng quá trớn đã xảy ra từ lâu, lạm phát cao cũng đã xảy ra từ lâu, ít ra từ năm 2004. Luồng ngoại tệ đổ thêm vào Việt Nam năm 2007 chỉ như đổ dầu thêm vào lửa thôi. Hiện tượng phát hành tiền Việt quá nhiều trong thời gian dài là nhằm vào mục đích tăng chi tiêu nhà nước, nhất là vào đầu tư để chạy đua lập thành tích đạt con số tăng GDP cao.

Do đó không thể đánh đồng tỷ lệ tăng GDP cao với tỷ lệ phát triển kinh tế. GDP to nhưng bị cắt xén bỏ túi riêng, chất lượng xây dựng thấp kém, ô nhiễm môi trường nặng nề, tăng tỷ lệ nghèo đói…

Lạm phát

Giá tăng liên tục có lẽ đang làm tăng tỷ lệ dân không đủ ăn, phá vỡ một thành tích đạt được trong thời đổi mới, đặc biệt là lạm phát giá lương thực và thực phẩm trong 10 tháng đầu năm lên trên 10%, riêng lương thực là 15%.

Không đủ ăn được định nghĩa là không đủ 2.100 calories hàng ngày và tính theo thời giá là 200.000 đồng một tháng. Tỷ lệ dân không đủ ăn là 19,5% năm 2004 theo nghiên cứu của Việt Nam công bố trên website của World Bank. Như vậy có đến hơn 16 triệu người không kiếm nổi 200.000 đồng một tháng.

Lạm phát cao và liên tục làm người có lương cố định nghèo đi. Từ năm 2000 đến nay, nếu không được tăng lương thì mức sống của người lao động vào năm 2006 đã giảm 42%. Dân lao động khó có thể ngồi yên mà không đòi tăng lương, và việc tăng lương lại góp thêm vào vòng xoáy lạm phát.

Lương tăng nhưng giá trị tiền đồng lại lên giá so với ngoại tệ, làm cho chi phí sản xuất tăng cao, sẽ ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, vì hàng Việt Nam mất khả năng cạnh tranh về giá. Điều này lại càng làm cho cán cân xuất nhập khẩu âm lớn hơn hiện nay.

Có một hiện tượng nghịch lý trong nền kinh tế Việt Nam từ năm 2004 đến nay là việc tăng tín dụng, phát hành tiền đã làm tăng lạm phát, làm tiền đồng nhanh chóng mất sức mua trong nội bộ nền kinh tế, trong khi đó giá trị tiền đồng so với đồng USD Mỹ lại tăng giá, làm mất tính cạnh tranh của hàng Việt Nam. Trong vòng bốn năm qua đồng Việt Nam đã lên giá 13% so với đồng USD Mỹ.

Nếu ai hỏi tôi về chính sách ưu tiên cần thực hiện hiện nay thì tôi phải trả lời đó là chống lạm phát. Nếu không làm, xã hội sẽ ngày càng mất ổn định. Thật khó hiểu khi nhiều nhà làm chính sách vẫn hô hào làm sao giữ lạm phát thấp hơn tốc độ phát triển là được.

Nếu lạm phát cứ 8% hoặc cao hơn mỗi năm, người lao động ngày càng nghèo, người có tài sản ngày càng giàu vì mọi người có khả năng sẽ đổ xô mua tài sản vì nó là biện pháp duy nhất bảo vệ giá trị tài sản. Lúc đó thì tốc độ tăng trưởng dù có đạt 8 hay 10% chỉ có lợi cho người giàu, còn người nghèo sẽ bị bỏ lại bên lề xã hội. Mà người nghèo có thể tới 80-90% dân số chứ không ít. Trước đổi mới, lạm phát làm mọi người cùng nghèo. Hiện nay chỉ có dân không có tài sản mới bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, lại có lý luận hết sức buồn cười là lạm phát hiện nay là do giá dầu tăng. Cứ nhìn thống kê thì thấy lạm phát ở Việt Nam không mới, đã ở mức không chấp nhận được từ năm 2004.

Lý luận trên ngược lại với những thông tin sẵn có về lạm phát thấp ở nhiều nước mặc dù họ cũng gặp vấn đề giá dầu tăng. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng giá cao nhất. Trong sáu năm qua, đồng tiền đã mất sức mua 42%. Còn những nước không có xăng dầu như Nhật thì giảm phát, Singapore và Hàn Quốc thì lạm phát rất thấp dù họ không có dầu hỏa.

Tất nhiên việc tăng giá dầu có tác động đến mặt bằng giá chung, nhưng chính sách tiền tệ và tín dụng đúng đắn vẫn có khả năng điều chỉnh. Hiện nay, năm 2007, Mỹ có bị áp lực tăng giá do giá dầu tăng, nhưng cũng chỉ tới mức 3,5%. Nhật vẫn tiếp tục âm. Còn Thái Lan, Singapore đều dưới 2,7%, Malaysia dưới 2%.

Các nước khác lạm phát cao thì đều là do sai lầm về chính sách, chứ không chỉ vì giá dầu. Chỉ nhìn tốc độ tăng tiền tệ hay tín dụng hàng năm ở Việt Nam là biết tại sao giá tăng.

Chạy đua GDP

Việc chạy đua đạt tốc độ tăng GDP thần kỳ đã phổ biến rộng khắp toàn xã hội. Những con số mới nhất mà các tỉnh đưa ra cho thấy tốc độ tăng GDP của họ là thần kỳ giả tạo. (Đáng lẽ vấn đề công bố thống kê phải thuộc Tổng cục Thống kê chứ không thuộc tỉnh). Những con số mà mà các tỉnh báo cáo cho thấy điều phi lý là họ chạy nhanh hơn cả nước.

Với tình trạng hiện nay, trung ương chạy đua và các tỉnh cũng cùng chạy đua theo tiếng còi chỉ tiêu GDP. Không biết đầu tư từ ngân sách (lên đến trên 9% GDP, bằng một phần ba ngân sách) sẽ phí phạm biết chừng nào.

Đã là một nền kinh tế thị trường thì đáng lẽ việc đạt tốc độ tăng không nằm trong tay Nhà nước mà trong tay doanh nghiệp và dân chúng. Vậy thì có lý gì phải có chỉ tiêu tăng GDP để phí phạm.

Đồng ý là cần dự báo GDP để cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp có thể tính toán về thị trường và về nhu cầu đầu tư cho hạ tầng như điện, nước, đường sá, cầu cảng... nhưng không nên xem nó là chỉ tiêu phải đạt để rồi phí phạm ngân sách. Dự báo và chỉ tiêu là hai điều hoàn toàn khác nhau.

NỘI DUNG KHÁC

Hội nghị tổng kết công tác Đảng năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008

31-12-2007

AGROINFO - Chiều ngày 28/12/2007 tại Hội trường Viện, Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT đã tổ chức hội nghị tổng kết công tác Đảng năm 2007 và bàn nhiệm vụ công tác Đảng năm 2008.

Bàn về xây dựng và phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam

28-12-2007

Sản xuất nông nghiệp Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đưa nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực trở thành một cường quốc xuất khẩu các loại nông sản. Đó là do sự thay đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã có những chuyển biến khá mạnh mẽ từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá trên cơ sở hình thành nhiều vùng sản xuất các giống cây trồng và vật nuôi có giá trị kinh tế và xuất khẩu. Nhưng nông nghiệp Việt Nam đã và đang bộc lộ một số yếu kém cần khắc phục như phương thức và công cụ sản xuất còn lạc hậu, trình độ sản xuất và quản lý còn thấp, quy mô sản xuất manh mún, quy trình sản xuất hàng hoá thiếu đồng bộ... dẫn tới năng suất, chất lượng nông sản không cao, mức độ vệ sinh an toàn của sản phẩm chưa được coi trọng, hàng hoá nông sản khó đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, của xuất khẩu, đặc biệt trước yêu cầu hội nhập với kinh tế thế giới.

Vũ điệu với người khổng lồ - Trung Quốc, Ấn Độ và nền kinh tế toàn cầu

28-12-2007

“Sự nổi lên của Trung Quốc và Ấn Độ tạo ra những quan ngại sâu sắc về các cơ hội phát triển đối với nước nghèo và sự nghèo hóa của những nước giàu hơn. Khiêu vũ với người khổng lồ diễn giải những quan ngại này trong bối cảnh lịch sử của nó. Với những phân tích chi tiết và hợp lý, các tác giả đã chỉ ra những Người khổng lồ này thực sự khổng lồ trên một lĩnh vực. Trong một số lĩnh vực khác, tăng trưởng của hai nước này mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức” (Justin Yifu Lin, Giám đốc sáng lập. Trung tâm nghiên cứu kinh tế Trung Quốc, Đại học Bắc Kinh)

Công nghiệp chế biến thực phẩm của các nước trong khu vực APEC

28-12-2007

AGROINFO - Từ ngày 12 đến ngày 14tháng 12 năm 2007, thông qua sự tài trợ của APEC, Viện nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Malaysia (MARDI) đã tổ chức buổi hội thảo về “Tự do hoá Thị trường và Mối quan hệ của nó với Cấu trúc Thị trường, Quản lý và hiệu quả thị trường của ngành Công nghiệp Chế biến thực phẩm của các nền Kinh tế thành viên APEC”. Tới tham dự hội thảo là các chuyên gia, cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực tư do hóa thương mại và ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của các nước thành viên bao gồm Việt Nam, Thái Lan, Philippin, Indonesia, Malaysia và Bruney.

Hội thảo "Thực trạng và giải pháp về tổ chức và hoạt động của các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu"

29-12-2007

Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn tổ chức hội thảo khoa học về kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ: Hội thảo "Thực trạng và giải pháp về tổ chức và hoạt động của các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu" do ông Nguyễn Đình Long làm chủ nhiệm đề tài.

Lao động "nội" và "ngoại" đều đang tăng

27-12-2007

Hiện có khoảng 400 ngàn người Việt Nam đang lao động tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Đài Loan... đồng thời có hàng chục ngàn người nước ngoài cũng đang mưu sinh tại Việt Nam. Đáng mừng là những con số này đều đang có xu hướng tăng lên.

10 mẹo làm việc hiệu quả hơn với PowerPoint (Phần I)

27-12-2007

PowerPoint là một phần mềm trình diễn mạnh, nhưng không phải ai trong chúng ta cũng thường xuyên sử dụng Powerpoint đủ để nắm được hết các mẹo sử dụng sao cho tiết kiệm thời gian nhất. Thật vui là bạn không cần phải trở thành chuyên gia để khám phá hết các đặc tính của PowerPoint.

Di dân và giảm nghèo nhìn từ giác độ Xã hội học

27-12-2007

Giống như các quốc gia khác, di dân ở Việt Nam là một hiện tượng kinh tế-xã hội mang tính quy luật, một cấu thành gắn liền với quá trình phát triển. Di chuyển lao động là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất của sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền lãnh thổ, giữa các quốc gia. Dưới tác động của toàn cầu hoá những khác biệt mức sống, chênh lệch trong thu nhập, cơ hội việc làm, sức ép sinh kế, tiếp cận dịch vụ xã hội giữa các khu vực, vùng miền là các nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư trong và ngoài nước hiện nay.

Trung Quốc điều chỉnh thuế X-NK năm 2008

27-12-2007

Trung Quốc sẽ điều chỉnh hơn nữa thuế xuất nhập khẩu kể từ ngày 1-1-2008, đến lúc đó mức thuế bình quân của Trung Quốc sẽ giảm xuống còn 9,8%.

Bất bình đẳng ở Việt Nam - Khoảng cách lớn như thế nào?

27-12-2007

Phân tầng xã hội là vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Để trả lời câu hỏi về mức độ bất bình đẳng ở Việt Nam, trước hết chúng ta cần có hướng tiếp cận nhằm đo lường bất bình đẳng. Một cách khái quát, có 2 phương pháp đo lường về bất bình đẳng: Thứ nhất, đo lường bất bình đẳng nói chung thông qua hệ số Gini – được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu; Thứ hai, đo bất bình đẳng về cơ hội thông qua khoảng cách chênh lệch về đầu ra giữa các nhóm xã hội. Trong hai phương pháp này, bất bình đẳng cơ hội mô tả rõ nét về sự bất bình đẳng xã hội hơn và chỉ ra “cái bẫy bất bình đẳng” tồn tại dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Cuba mong muốn được học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn

27-12-2007

AGROINFO - Chiều ngày 26/12/2007, đồng chí Đại sứ Cuba tại Hà Nội Jesus Aise Sotolongo có buổi làm việc với cán bộ nghiên cứu Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD). Buổi làm việc được tổ chức theo đề nghị từ phía đại sứ quán Cuba với Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm trao đổi và chia sẻ những kinh nghiệm của Việt Nam về các vấn đề xây dựng và hoạch định chính sách, chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn với nước bạn Cuba.

10 vấn đề "nóng" của năm 2008

26-12-2007

Trong 150 phút, tại hai đầu cầu Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, các chuyên gia Phạm Chi Lan, người rất tâm huyết với phát triển DN Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển IDS, Tiến sĩ Ngô Vĩnh Long, giảng viên môn Lịch sử, ĐH Maine, Mỹ đã cùng nhà báo Nguyễn Anh Tuấn xới lên những vấn đề trăn trở trong năm qua và cần được giải quyết trong năm 2008. Từ câu chuyện bình đẳng giữa DN tư nhân và DN nhà nước, giáo dục đào tạo, thu hút và sử dụng người tài, cải cách hành chính, chiến lược công nghệ quốc gia, xây dựng và gìn giữ bản sắc, cá tính dân tộc đến câu chuyện về một vị thế mới trên tư cách thành viên HĐBA Liên Hợp Quốc đã được bàn thảo.