TIN TỨC-SỰ KIỆN

Hoàn thiện quy định pháp luật về thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản có ích đi kèm

Ngày đăng: 20 | 08 | 2024

Các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản đã quy định về công tác thăm dò và đánh giá trữ lượng, tài nguyên các loại khoáng sản, trong đó có khoáng sản có ích đi kèm trong diện tích thăm dò. Để hạn chế những bất cập trong công tác thăm dò, thẩm định, công nhận trữ lượng khoáng sản có ích đi kèm, cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung trong quy định của pháp luật về khoáng sản. Thực tế thăm dò cho thấy hầu hết các mỏ khoáng sản là mỏ khoáng sản tổng hợp (mỏ có từ 1 đến 2 khoáng sản, hoặc có một số thành phần đi kèm có thể thu hồi có hiệu quả). Thông thường khi lập đề án thăm dò đã xác định đối tượng khoáng sản chính và các khoáng sản có ích đi kèm như các mỏ chì - kẽm, mỏ thiếc - volfram gốc, mỏ volfram đa kim, mỏ đồng - niken, mỏ vàng, mỏ đất hiếm… và các báo cáo kết quả thăm dò đã tính được trữ lượng, tài nguyên các khoáng sản chính, khoáng sản và thành phần có ích đi kèm ở mỏ.

Những hạn chế trong thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản có ích đi kèm

Tuy vậy trong thực tế cũng có một số mỏ khi thăm dò chưa nghiên cứu đánh giá trữ lượng các khoáng sản đi kèm. Sau khi được cấp phép khai thác mới xuất hiện nhu cầu sử dụng các khoáng sản đi kèm và khi đó phải đề nghị được nghiên cứu bổ sung và đánh giá trữ lượng các khoáng sản có ích đi kèm để được phép sử dụng. Ví dụ, các mỏ đá vôi nguyên liệu xi măng khu vực Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Hà Tiên… trước đây khi thăm dò xác định không sử dụng đá vôi phi nguyên liệu (các lớp kẹp đá vôi sét, sét vôi, đá vôi dolomit…) nên không đánh giá trữ lượng, sau này khi có nhu cầu sử dụng chúng làm nguyên liệu phối trộn, làm phụ gia, làm vật liệu xây dựng… phải đề nghị được nghiên cứu bổ sung và công nhận trữ lượng.

15082024 KS1
Cần xác định rõ đối tượng khoáng sản chính, khoáng sản có ích đi kèm để thăm dò khoáng sản đạt hiệu quả

Ngoài ra, một số mỏ cao lanh khu vực Bình Phước, Lâm Đồng đã đề nghị nghiên cứu bổ sung và công nhận trữ lượng cát xây dựng đi kèm sau khi thu hồi cao lanh; một số mỏ sa khoáng titan-zircon ven biển khu vực Quảng Bình, Bình Thuận đã đề nghị đánh giá bổ sung trữ lượng cát công nghiệp, đất san lấp…

Bên cạnh đó, tại các quyết định hoặc Thông tư quy định về thăm dò và phân cấp trữ lượng, tài nguyên các khoáng sản riêng biệt có điều khoản yêu cầu về đánh giá các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm nhưng còn chung chung, chưa chi tiết. Đồng thời, vẫn còn những bất cập liên quan đến trữ lượng và tài nguyên, cần được nghiên cứu bổ sung trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.

Quy định về phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn của Việt Nam ban hành tại Thông tư số 60/2017/TT-BTNMT của Bộ TN&MT hiện hành đã tiếp cận phân cấp khung của Liên hợp quốc về trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn. Trong đó xác định rõ các khái niệm: Tài nguyên khoáng sản rắn, tài nguyên khoáng sản rắn xác định, tài nguyên khoáng sản rắn dự báo và trữ lượng khoáng sản rắn. Việc phân cấp trữ lượng và tài nguyên theo 3 trục có tính khoa học và áp dụng trong thực tế không có vướng mắc lớn, và hiện nay cơ sở dữ liệu thống kê trữ lượng và tài nguyên khoáng sản của cả nước đã được chuyển đổi theo hệ thống này không nên có thay đổi lớn.

Tuy vậy, phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn còn một số bất cập và ban hành ở dạng thông tư chưa tương xứng với vị trí, vai trò của nó trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản, đề nghị tiếp tục nghiên cứu bổ sung.

Trong các văn bản quy phạm pháp luật cao hơn còn có một số thuật ngữ về trữ lượng và tài nguyên chưa thống nhất như: Trữ lượng địa chất, trữ lượng khai thác, trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác, trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tài nguyên dự tính…, chưa thống nhất với hệ thống phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn.

Đối với khoáng sản đi kèm, thuật ngữ này hiện chưa được xác định rõ. Các khoáng sản đi kèm luôn xuất hiện ở các mỏ, song công tác đánh giá trữ lượng chỉ với các khoáng sản và thành phần đi kèm có ích (khoáng sản và thành phần đi kèm có khả năng thu hồi và có hiệu quả kinh tế khi khai thác khoáng sản chính). Trong thăm dò khi chưa có nhu cầu sử dụng thì chưa cần nghiên cứu, đánh giá trữ lượng; tuy nhiên khi thăm dò khoáng sản chính cần kết hợp nghiên cứu đánh giá sự có mặt và sơ bộ đánh giá khả năng thu hồi sử dụng các khoáng sản có ích đi kèm.

Hiện tại trong một số văn bản hướng dẫn công tác thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản riêng biệt có nêu yêu cầu về đánh giá trữ lượng các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm, chưa có thông tư quy định về mức độ nghiên cứu và đánh giá trữ lượng các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm, đây cũng là hạn chế.

Đề xuất nghiên cứu chuẩn hóa trong Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản

Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản hiện nay cơ bản đã được tiếp thu hoàn thiện theo các góp ý và dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tới. Tuy vậy đề nghị tiếp tục nghiên cứu chuẩn hóa một số điểm: Phần giải thích từ ngữ đề nghị bỏ khái niệm Địa chất, và một số thuật ngữ khoa học chuyên môn như: Khoáng sản đi kèm, trữ lượng khoáng sản, tài nguyên khoáng sản… nên đưa vào Nghị định để có định nghĩa chi tiết hơn, và trong Mục thăm dò khoáng sản cần bổ sung “Chính phủ quy định về phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn để có cơ sở ban hành để thống nhất các khái niệm trữ lượng, tài nguyên khoáng sản và các cấp trữ lượng, tài nguyên khoáng sản”.

Về phân cấp trữ lượng và tài nguyên thực tế chưa hoàn toàn theo 3 trục (kinh tế, kỹ thuật công nghệ và địa chất). Hiện tại các báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản đều không thành lập báo cáo nghiên cứu khả thi về khai thác mà chủ yếu sử dụng chỉ tiêu hàm lượng công nghiệp tối thiểu (kỳ vọng có hiệu quả kinh tế) để xếp cấp trữ lượng và tài nguyên. Thực tế này chấp nhận được, phù hợp quy định hiện nay là trữ lượng được duyệt mới lập báo cáo nghiên cứu khả thi.

15082024 KS2
Thăm dò khoáng sản phải đánh giá đầy đủ quy mô, trữ lượng, chất lượng các loại khoáng sản có trong khu vực thăm dò

Khi xây dựng Nghị định về phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn hoặc quy định trong một số điều của Nghị định hướng dẫn thi hành Luật cần giữ lại nội dung của phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn hiện hành. Khi các báo cáo kết quả thăm dò có báo cáo nghiên cứu khi về khai thác thì xếp cấp trữ lượng, nếu chỉ có báo cáo luận giải chỉ tiêu tính trữ lượng thì chỉ xếp cấp tài nguyên xác định, trình Hội đồng thẩm định, công nhận làm cơ sở cấp phép khai thác hoặc nghiên cứu khả thi về khai thác.

Ngoài ra, một số thuật ngữ: Trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác, trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản nêu trong Nghị định số 158/2016/NĐ-CP và Nghị định 67/2019/NĐ-CP chưa rõ cơ sở khoa học, không phù hợp với phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản rắn. Trong Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, các khái niệm trên đã được loại bỏ là phù hợp.

Để nâng cao chất lượng công tác thăm dò và đánh giá trữ lượng, tài nguyên các mỏ khoáng sản, trong đó có khoáng sản đi kèm, các văn bản quy phạm về thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài nguyên khoáng sản cần làm rõ các khái niệm: Khoáng sản chính, khoáng sản đi kèm, khoáng sản và thành phần có ích đi kèm và bổ sung quy định về mức độ nghiên cứu và đánh giá trữ lượng các khoáng sản và thành phần có ích đi kèm.

Để công tác thăm dò đạt hiệu quả, khi lập đề án thăm dò cần xác định rõ đối tượng khoáng sản chính, khoáng sản có ích đi kèm và dự kiến khối lượng công tác nghiên cứu phù hợp để có cơ sở đánh giá trữ lượng.

Theo Monre

NỘI DUNG KHÁC

GreenEcard: Giải pháp công nghệ số hóa để bảo vệ môi trường

20-8-2024

Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường, việc tìm kiếm các giải pháp bền vững và thân thiện với thiên nhiên đã trở thành một ưu tiên hàng đầu. GreenEcard - dịch vụ thẻ sinh thái số hóa nổi lên như một bước tiến quan trọng trong việc giảm thiểu rác thải nhựa, góp phần bảo vệ môi trường. Trước hết, phải nhấn mạnh rằng rác thải nhựa là một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất hiện nay. Theo các báo cáo và nghiên cứu gần đây, mỗi năm có khoảng 8 - 12 triệu tấn nhựa bị thải ra môi trường, gây hại không chỉ cho hệ sinh thái mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Nhựa khó phân hủy tự nhiên và khi chúng tích tụ trong đất, nước, và không khí, chúng có thể tồn tại hàng trăm năm mà không phân rã. Điều này gây ra các vấn đề về ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến các sinh vật biển và đất liền và thậm chí làm gián đoạn chuỗi thức ăn của con người. Trong bối cảnh đó, việc giảm thiểu sử dụng nhựa là một nhiệm vụ cấp bách. GreenEcard ra đời như một giải pháp công nghệ tiên tiến nhằm đối phó với vấn đề này. Với việc sử dụng GreenEcard, các loại thẻ nhựa truyền thống được thay thế bằng phiên bản số hóa, dễ dàng lưu trữ và quản lý trên các thiết bị điện tử như điện thoại di động, máy tính bảng, hay máy tính cá nhân.

Kiểm kê khí nhà kính để tăng tốc giảm phát thải

27-8-2024

Chính phủ vừa ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật). Đây sẽ là căn cứ để các ngành, lĩnh vực phân bổ nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm phát thải và doanh nghiệp có thể tham gia thị trường các-bon trong thời gian tới. Theo Luật Bảo vệ Môi trường, định kỳ 2 năm một lần, Chính phủ sẽ cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Danh mục đầu tiên được Chính phủ ban hành năm 2022 tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg gồm có 6 lĩnh vực và 1.912 cơ sở.Ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg; bao gồm 6 lĩnh vực và 2.166 cơ sở, chiếm khoảng 30% tổng phát thải khí nhà kính quốc gia.So với Quyết định 01, danh mục mới đã loại ra 297 cơ sở do đã dừng hoạt động hoặc giảm quy mô, công suất hoạt động và cập nhật bổ sung 551 cơ sở mới có lượng phát thải khí nhà kính lớn nằm trong diện quản lý.

Chuyển đổi xanh Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê khí nhà kính

27-8-2024

Nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tại Hải Phòng nắm bắt được các quy định về kiểm kê cũng như trách nhiệm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK); có khả năng thực thi bước đầu các yêu cầu kỹ thuật mới theo luật pháp trong nước và quốc tế, ngày 15/8/2024, tại Hải Phòng, Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT) - Ủy ban Tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia, Viện Chiến lược và công nghệ Logistics (VLIST), Hiệp hội Logistics Hải Phòng (HPLA), Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hải Phòng (HPSME) và Tạp chí Môi trường phối hợp tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi xanh Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê KNK”. Tại Hội thảo, các đại biểu được chia sẻ nhiều thông tin hữu ích về kinh nghiệm áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong kiểm kê KNK, trung hòa các-bon; các phương pháp trung hòa các-bon đã và đang được triển khai; những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp trong thực hiện kiểm kê KNK... Qua đó giúp các doanh nghiệp tại Hải Phòng hiểu được yêu cầu và thực tiễn về chuyển đổi xanh, Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê KNK. Hội thảo cũng thảo luận sâu rộng các nội dung liên quan đến công nghệ quan trắc, giám sát và kiểm kê KNK, từ đó mang đến cái nhìn toàn diện về tình hình phát thải trong các ngành công nghiệp, năng lượng, nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Đồng thời, đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển bền vững các ngành kinh tế chủ lực của địa phương, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh, hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật)

27-8-2024

Ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg. Thực hiện Luật BVMT năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương xây dựng danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và được cập nhật 2 năm một lần. Thực hiện quy định nêu trên, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg. Theo đó, các lĩnh vực phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm: năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, các quá trình công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, chất thải. Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm có 1.912 cơ sở, thuộc các ngành: công thương, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên và môi trường.

Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon

10-9-2024

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch số 09/KH-BTNMT Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon nhằm thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ; nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định Kế hoạch nhằm mục đích triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Chỉ thị số 13/CT-TTg, trong đó cụ thể hóa các nội dung, nhiệm vụ cho đơn vị có liên quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đồng thời nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam; về quản lý tín chỉ các-bon, phương thức tạo tín chỉ các-bon, phát triển thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon thế giới.

Châu Phi tăng cường hành động phối hợp: Biến khủng hoảng môi trường thành cơ hội phát triển

10-9-2024

Hội nghị Bộ trưởng châu Phi về Môi trường tuần này có thể là cơ hội cuối cùng để tất cả các bộ trưởng môi trường châu Phi tập trung và thống nhất các chính sách và hành động trước 3 hội nghị toàn cầu quan trọng về đa dạng sinh học, khí hậu và sa mạc hóa vào cuối năm nay. Tác động của ba cuộc khủng hoảng hành tinh gồm biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm đang làm tổn hại đến cảnh quan của châu Phi, làm cạn kiệt các đại dương và nguồn nước ngọt của châu lục này, đồng thời khiến tình trạng ô nhiễm không khí đô thị lên mức nguy hiểm. Một số tác động lan rộng của ba cuộc khủng hoảng hành tinh có thể là tác động tàn phá nhất: Châu Phi là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do sa mạc hóa và suy thoái đất, với khoảng 45% diện tích đất bị ảnh hưởng. Riêng ở vùng Sừng châu Phi và Sahel, suy thoái đất đã gây ra tình trạng thiếu lương thực cho hơn 23 triệu người. Chỉ tính riêng tháng trước, hơn 700.000 người đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Trung và Tây Phi, và hàng chục triệu người ở miền Nam châu Phi đang phải đối mặt với hạn hán.

Nhiên liệu ethanol - đóng góp quan trọng trong hành trình chuyển đổi “xanh”

10-9-2024

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc chuyển sang sử dụng nhiên liệu ethanol đóng góp tích cực trong hành trình này. Với gần 100 triệu dân và khoảng 79 triệu phương tiện (73 triệu xe máy và hơn 6 triệu ô tô), việc chuyển sang các nguồn nhiên liệu bền vững như xăng ethanol là cần thiết để phát triển hệ thống giao thông xanh giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050. Thực tế, chỉ riêng năm 2023, việc pha trộn ethanol vào xăng đã giúp giảm 56,5 triệu tấn khí thải nhà kính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Con số này tương đương với việc loại bỏ 12 triệu xe ô tô khỏi đường phố mỗi năm; lượng khí thải hàng năm của 15 nhà máy điện than; hoặc thậm chí tương đương với lượng khí thải từ 325.000 chuyến bay khứ hồi từ Los Angeles đến Thành phố New York. Theo nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ethanol sản xuất từ các nguyên liệu nông nghiệp có thể giảm lượng khí thải nhà kính lên đến 80%, tùy thuộc vào nguyên liệu sử dụng. Một tương lai xanh mà ở đó ethanol trở thành nhiên liệu chính cho động cơ là hoàn toàn có thể.

Đề xuất chính sách cho hệ thống pin lưu trữ

20-9-2024

Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) vừa đưa ra kết quả một số nghiên cứu về hệ thống lưu trữ điện năng ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của hệ thống pin lưu trữ (BESS) nhằm đảo bảo các nguồn năng lượng tái tạo phát triển ổn định. Nghiên cứu của Viện Năng lượng đưa ra tham khảo về hành lang pháp lý và mức độ áp dụng BESS ở một số nước như Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ. Các nước này đã chuẩn bị sẵn hành lang pháp lý và các quy định kỹ thuật để BESS tham gia vào hệ thống điện với vai trò cung cấp công suất đỉnh, cung cấp dịch vụ hỗ trợ. Ở cấp độ dự án là kết hợp với điện mặt trời, hay điện gió để cung cấp điện ổn định hơn với giá thành cạnh tranh. Tại Việt Nam, Viện Năng lượng tính toán mô phỏng cho hệ thống thí điểm 50 MW pin lưu trữ dự định đầu tư tại Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Vào mùa khô, BESS sẽ phải hoạt động nạp/xả 3 lần 1 tuần. Vào mùa mưa, khi nguồn nước thủy điện dồi dào, thủy điện đóng vai trò phủ đỉnh và ổn định tần số nên BESS chỉ phải huy động 1 lần trong 1 tuần.

Huy động vốn đầu tư chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh thực hiện chuyển dịch năng lượng, trọng tâm là chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Tổng vốn đầu tư cho nguồn, lưới điện truyền tải giai đoạn 2021-2030 trong Quy hoạch điện VIII khoảng 134,7 tỷ USD và đây là một thách thức rất lớn. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch điện VIII) đề ra mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2030. Tương ứng, tổng công suất các nhà máy điện phải đạt 150.489 MW và điện thương phẩm khoảng 505,2 tỷ kWh. Ước tính tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 134,7 tỷ USD (trung bình 13,5 tỷ USD/năm). Trong đó, đầu tư cho nguồn điện khoảng 119,8 tỷ USD (trung bình 12 tỷ USD/năm), lưới điện truyền tải khoảng 14,9 tỷ USD (trung bình 1,5 tỷ USD/năm).

Việt Nam nỗ lực triển khai đồng bộ giải pháp chuyển đổi năng lượng

20-9-2024

Chuyển dịch năng lượng có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, chuyển đổi nền kinh tế theo hướng xanh và tác động đến tất cả các ngành liên quan đến sử dụng năng lượng. Việt Nam đang chú trọng chuyển dịch cả từ phía nguồn cung và phía sử dụng năng lượng, nhằm tạo tác động cộng hưởng và thúc đẩy quá trình diễn ra nhanh hơn. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp ngày càng cạn kiệt, Việt Nam vừa phải đảm bảo an ninh năng lượng vừa phải đảm bảo đáp ứng các cam kết quốc tế về hạn chế những nguồn điện gây phát thải CO2. Nhìn về dài hạn, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ quan điểm: “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch”.

Các Kịch bản phát triển giao thông theo hướng Net Zero

20-9-2024

Với mục tiêu xây dựng kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) đối với 5 lĩnh vực: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, đường biển ven bờ và hàng không, GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Đại học Bách khoa Hà Nội đã nghiên cứu và đưa ra kịch bản hướng tới phát thải ròng về “0” trong ngành Giao thông vận tải (GTVT) tại Việt Nam, tầm nhìn đến năm 2050. Theo nghiên cứu, trong năm 2021, ngành vận tải có khoảng 94.000 triệu lượt luân chuyển hành khách/km, tương đương với việc thải ra 188.300 triệu tấn carbon/km ra môi trường và hiện vẫn đang tiếp tục tăng trưởng. Việc phát thải phụ thuộc chủ yếu vào nhiên liệu hoá thạch >95% nhu cầu năng lượng, trong đó, ngành giao thông vận tải (GTVT) tiêu thụ năng lượng đứng vị trí thứ 2 (16,5%), chỉ sau công nghiệp (54,1%), qua việc tiêu thụ năng lượng từ các sản phẩm than và dầu. Thời gian qua, Việt Nam đã và đang hướng đến mục tiêu thực hiện các kịch bản giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) ngành GTVT đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0”, trong đó, các kịch bản đều hướng tới nguyên tắc chung: Phù hợp, nhất quán với mục tiêu và định hướng của chính sách; phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ năng lượng và phương tiện; tích hợp các giải pháp giảm thiểu khác trên cơ sở tối ưu chi phí.

Chính sách liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường có hiệu lực từ tháng 9/2024

23-9-2024

Từ tháng 9/2024, hàng loạt các chính sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ; quản lý và sử dụng tiền ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường và hỗ trợ chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường sẽ bắt đầu có hiệu lực.