TIN TỨC-SỰ KIỆN

Mở cửa thị trường bán lẻ: Ai được, ai mất?(kỳI)

Ngày đăng: 23 | 08 | 2006

Ngày 31/5/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh, đàm phán song phương với Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã kết thúc. Theo cam kết, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các nhà cung cấp dịch vụ của Hoa Kỳ sẽ tiếp cận thị trường Việt Nam một cách dễ dàng hơn và sẽ được hưởng quy chế đãi ngộ quốc gia trên nhiều lĩnh vực như bảo hiểm

Ngày 31/5/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh, đàm phán song phương với Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã kết thúc. Theo cam kết, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các nhà cung cấp dịch vụ của Hoa Kỳ sẽ tiếp cận thị trường Việt Nam một cách dễ dàng hơn và sẽ được hưởng quy chế đãi ngộ quốc gia trên nhiều lĩnh vực như bảo hiểm|, ngân hàng, chứng khoán, viễn thông, năng lượng, chuyển phát nhanh, xây dựng,v.v... Ngoài ra, Việt Nam cũng đã đồng ý xem xét việc mở cửa thị trường rộng hơn so với những gì đã được thỏa thuận giữa hai bên. Đặc biệt, trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, Việt Nam sẽ tự do hóa lĩnh vực bán buôn, bán lẻ và nhượng quyền kinh doanh. Sau thời điểm gia nhập WTO, các doanh nghiệp Mỹ trong lĩnh vực này được phép thành lập liên doanh với đối tác phía Việt Nam; kể từ 1/1/2009, các doanh nghiệp Hoa Kỳ được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và cung cấp các hàng hóa cả nhập khẩu và sản xuất trong nước trên thị trường Việt Nam.

Sức ép cạnh tranh trên thị trường Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ phân phối và bán lẻ

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đang trở thành thị trường mới hấp dẫn đối với các nhà phân phối lớn trên thế giới với dân số gần 83 triệu, mức tăng GDP 8,4%/ năm và tổng tiêu dùng lên đến 21 tỉ USD trong năm 2005. Đại diện nhiều tập đoàn tư vấn bất động sản quốc tế chuyên nghiệp cho rằng, sức hấp dẫn còn do mức giá cho thuê các trung tâm thương mại tại Việt Nam khá rẻ và linh động. Ngoài ra, Việt Nam còn là cửa ngõ dẫn tới một số thị trường như Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia và Lào. Theo kết quả khảo sát của tập đoàn tư vấn hàng đầu thế giới AT Kearnay (Mỹ), Việt Nam đang là thị trường bán lẻ hấp dẫn thứ ba thế giới. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam như Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaixia), Zen Plaza (Nhật Bản) và Diamond Plaza (Hàn Quốc)… đang tích cực đẩy nhanh việc mở rộng thị phần qua các hoạt động kinh doanh của mình. Metro Cash&Carry đang hoạt động với 6 siêu thị tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ với hình thức bán buôn và bán lẻ khoảng 10000-15000 mặt hàng các loại. Hệ thống siêu thị Big C (Thái Lan) đang hoạt động với 3 siêu thị, 2 ở thành phố Hồ Chí Minh và 1 ở Đồng Nai và 4 siêu thị đang sắp xây dựng ở Hà Nội, Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Tập đoàn Parkson của Malaixia đã khai trương trung tâm mua sắm đầu tiên trong hệ thống 10 trung tâm sẽ đầu tư ở Việt Nam. Tập đoàn Bourbon (Pháp)  đã được cấp phép xây dựng tại Hải Phòng … 

Với những ưu thế về phương thức kinh doanh, vốn, trình độ quản lý, công nghệ, đã có nhiều tập đoàn phân phối quốc tế xây dựng kế hoạch xâm nhập thị trường sau khi Việt Nam vào WTO, trong đó có 3 tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới là Wal-Mart (Mỹ), Carefour (Pháp) và Tesco (Anh), cùng nhiều tập đoàn châu Á như Dairy Farm (Hồng Kông) và South Asia Investment (Xingapo), sẽ tạo sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các nhà sản xuất và các hãng phân phối Việt Nam. Tính đến tháng 12/2005, tập đoàn Carrefour đã thiết lập mạng lưới phân phối gồm 839 đại siêu thị, 1517 siêu thị, 4316 cửa hàng bán hàng chiết khấu và 331 các cửa hàng tiện lợi ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á. Tại Châu Á, hệ thống đại siêu thị của Carrefour đã có mặt ở Xingapo, Malaixia, Inđônêxia, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Trong đó,  xuất hiện ở Trung Quốc nhiều nhất, với 70/191 đại siêu thị ở châu Á. Năm 2005, doanh số bán hàng của Carrefour ở châu Á đạt trên 74 tỷ Euro, trong đó hệ thống đại siêu thị đóng góp 43 tỷ  Euro, hệ thống siêu thị đóng góp trên 13 tỷ Euro, cửa hàng bán chiết khấu đóng góp trên 6 tỷ Euro và 11 tỷ là doanh số của các loại hình phân phối khác.

Trong 6 tháng đầu năm 2006, Carrefour tiếp tục mở rộng mạng lưới phân phối đại siêu thị, siêu thị, bán hàng chiết khấu và các cửa hàng khác với số lượng 1000. Trong đó, tại Pháp tăng thêm 150, tại châu Âu tăng thêm 600, tại châu Mỹ tăng thêm 160. Riêng ở châu Á, Carrefour đã mở thêm 45 đại siêu thị và 45 cửa hàng bán hàng chiết khấu. 

Trong khi các tập đoàn bán lẻ nước ngoài được biết đến với hình ảnh những đại siêu thị đang hiện diện rất gần thị trường Việt Nam thì hầu hết cửa hàng truyền thống của Việt Nam đều ở trong tình trạng chung là có diện tích nhỏ, trung bình khoảng 11,8 m2/cửa hàng, trang thiết bị thô sơ và chủ yếu sử dụng lao động phổ thông. Ngay cả doanh nghiệp thương mại trong nước phần lớn cũng là doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Theo số liệu thống kê năm 2004 của Bộ Thương mại, bình quân 1 doanh nghiệp Việt Nam chỉ có 18 lao động với số vốn trung bình 6 tỷ đồng. Mặc dù đóng vai trò chủ đạo, nhưng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế quốc doanh trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (TMBLHH&DV) lại giảm dần trong những năm qua. Năm 1990, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ do khu vực kinh tế quốc doanh thực hiện chiếm tỷ trọng 30,4% TMBLHH&DV của cả nền kinh tế, đến năm 1997 giảm còn 20% và giảm liên tục trong các năm tiếp theo và hiện nay chỉ đạt khoảng 15%.

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá và dịch vụ vẫn đóng góp ở mức rất khiêm tốn trên sân chơi bán lẻ nội địa. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, khi mới xuất hiện trên thị trường Việt Nam vào năm 1994, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ chỉ đạt 446 tỷ đồng, chiếm 0,5% tổng TMBLHH&DV của cả nền kinh tế. Từ đó đến nay, tỷ trọng đóng góp của khu vực này tuy có tăng nhưng chiếm tỷ trọng vẫn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Năm đạt cao nhất là năm 2003 với doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đạt gần 14 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 4,1% TMBLHH&DV của cả nền kinh tế.

Tham gia ngày càng tích cực trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá và dịch vụ và đạt mức tăng trưởng khá ổn định là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Năm 1990, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thực hiện chiếm chưa tới 70% TMBLHH&DV; đến năm 1991, đã đạt 73,1%; năm 1999 đạt 80% và đến năm 2004 đạt mức 82,3%.  Điều đáng chú ý ở đây là khu vực cá thể và tư nhân vẫn tiếp tục dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng trong suốt năm 2005 và bốn tháng đầu năm 2006. Bốn tháng đầu năm 2006, tổng mức BLHH&DV của khu vực cá thể đạt trên 111,4 tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2005 và chiếm tỷ trọng 63,4% tổng mức BLHH&DV của nền kinh tế. Tổng mức BLHH&DV khu vực tư nhân đứng thứ hai và đạt trên 36,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21% và cũng là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất, tăng 24,6% so với cùng kỳ 2005. Tổng mức BLHH&DV khu vực quốc doanh đạt 21,1 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12% và là khu vực có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong cả nền kinh tế với mức 7,8%. Đóng góp của khu vực kinh tế tập thể và có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng thấp, chỉ đạt tương ứng 1% và 2,6% trong tổng mức BLHH&DV xã hội của nền kinh tế.

 Phạm Hoàng Ngân & TS. Hoàng Xuân Hòa
 
 

NỘI DUNG KHÁC

Giá gạo thế giới sẽ tăng gấp đôi

22-8-2006

Mặc dù sản lượng gạo thế giới tăng kỷ lục trong năm nay nhưng giá sẽ tăng gấp đôi trong vòng hai năm tới, theo dự đoán của Tập đoàn Quản lý hàng hóa Diapason (Thụy Sĩ). Chuyên gia Roland Jansen nói diện tích canh tác lúa của Trung Quốc, nước tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới, đang thu hẹp vì đô thị hóa.

Khoa học và Công nghệ với tăng trưởng kinh tế

21-8-2006

Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo trong đó có Việt Nam đang đứng trước một thực trạng rất mâu thuẫn: Do bị tụt hậu về khoa học kỹ thuật và công nghệ nên các nước này phải nhập khẩu các thành quả khoa học kỹ thuật và công nghệ từ các nước phát triển để phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội trong nước.

Cơ hội đóng góp của nhân tài cho Nông nghiệp nông thôn Việt Nam

16-8-2006

Để đáp ứng yêu cầu giai đoạn phát triển mới, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD)  đang cải cách mạnh trở thành cơ quan tham mưu cho Bộ NN7PTNT trong công tác hoạch đinh chiến lược và chính sách. Thông qua dự án Tăng cường năng lực do Quỹ Ford tài trợ Viện phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, áp dụng kỹ thuật nghiên cứu tiên tiến.

Nhãn lồng Hưng Yên trên đường xây dựng thương hiệu.

16-8-2006

Sáng ngày 11 tháng 8 năm 2006, tại khách sạn Melia Hà Nội đã diễn ra “ Hội nghị khách hàng: “Củng cố chuỗi giá trị Nhãn lồng Hưng Yên”. Tham dự hội nghị có TS. Đặng Kim Sơn (Viện CS&CL PTNN NT), ông Trần Việt Hùng ( Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ-Bộ KHCN), bà Angelia (cố vấn GTZ), ông Vũ trọng Bình (GĐ Trung tâm Phát triển nông thôn-Viện CS&CL)

Thử thách gay gắt của ngành chăn nuôi

15-8-2006

Nguy cơ mất dần thị trường trong nước. Nhìn vào 2 mặt hàng chiến lược của ngành chăn nuôi là thịt bò và thịt heo, có thể thấy rõ những nguy cơ này. Chăn nuôi heo dù có những bước cải thiện, tiếp cận với công nghệ của thế giới, năng suất có tăng lên, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp hơn so với khu vực.

Đầu tư và doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn (Kỳ II)

11-8-2006

Đầu tư nông nghiệp, nông thôn

Nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn (ở đây cũng được hiểu là cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản), cũng như các khu vực kinh tế-xã hội khác, có thể phân chia thành ba nguồn chính: 1) Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước (KV1); 2) Vốn đầu từ từ khu vực ngoài quốc doanh (KV2); 3) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (KV3).

Thập kỷ tới sẽ không phải là của riêng Ấn Độ, hay Trung Quốc

10-8-2006

Ngày nay người ta hay nhắc thông điệp đến thế kỷ 21 là thế kỷ của các con rồng Châu Á, với Trung Quốc là hiện thân của quyền lực, kinh tế và chính trị, Trung Quốc và Ấn Độ được đánh giá là ngôi nhà quyền lực của thế giới trong thập kỷ tới. Tuy nhiên, theo phân tích của Giáo Sư Prabhu Guptara

Hậu WTO của ngành Nông nghiệp

9-8-2006

TS. Đặng Kim Sơn: Cần một hướng đi mới
Theo phát biểu của Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển tại Quốc hội (kỳ họp thứ 9), đoàn đàm phán WTO của Chính phủ VN đã cân nhắc các lợi ích trước khi đưa ra các cam kết mở cửa thị trường nông sản, đảm bảo không để xảy ra khủng hoảng trong sản xuất nông nghiệp... Ông có tán thành nhận định trên? Vì sao?

Đầu tư và doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn (Kỳ I)

8-8-2006

Phát triển nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có được một lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn (DN NNNT) vững mạnh. Để có được lực lượng DN NNT vững mạnh thì một trong những điều kiện đặt ra là phải thu hút được và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xã hội cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Cúm gia cầm bao vây Việt Nam

8-8-2006

Thứ trưởng Bộ NNPTNT Bùi Bá Bổng khẳng định, sự xuất hiện trở lại của một loạt các ổ dịch cúm gia cầm tại Thái Lan, Lào và Trung Quốc mới đây cho thấy công tác phòng, chống dịch trong nước đang phải đối mặt với những nguy cơ có thể khiến dịch dễ dàng bùng phát trở lại.

Ấn phẩm Thị trường Nông sản– Cơ hội để giải mã thị trường.

7-8-2006

Việt Nam đứng đầu thế giới về một số mặt hàng xuất khẩu và kinh doanh nông sản của Việt Nam đang trở thành một ngành có vị thế quan trọng trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, nhu cầu về thông tin thị trường nông sản, đặc biệt là thông tin giá cả, diễn biến thị trường nông sản

Chỉ hạ giá nông sản thì không đủ sức cạnh tranh

4-8-2006

TP - Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, trong một "sân chơi" lớn, nếu chỉ hạ giá nông sản thì nông nghiệp nước ta sẽ không đủ sức cạnh tranh... Tiền Phong đã có cuộc trao đổi với Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, TS Đặng Kim Sơn về những vấn đề nêu trên.

©2025 Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường
Số 16 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội
Tel: 04-39722067, Fax: 84-4-39711062, Email: vienclcs@mae.gov.vn