TIN TỨC-SỰ KIỆN

Đầu tư và doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn (Kỳ I)

Ngày đăng: 08 | 08 | 2006

Phát triển nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có được một lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn (DN NNNT) vững mạnh. Để có được lực lượng DN NNT vững mạnh thì một trong những điều kiện đặt ra là phải thu hút được và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xã hội cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Phát triển nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có được một lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn (DN NNNT) vững mạnh. Để có được lực lượng DN NNT vững mạnh thì một trong những điều kiện đặt ra là phải thu hút được và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư xã hội cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.| Song ngược lại, những chính sách về phát triển DN NNNT của nhà nước và bản thân tiềm năng của các DN NNNT cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc khu vực nông nghiệp, nông thôn có thu hút được vốn đầu tư hay không.

Từ 1/7/2006, Luật doanh nghiệp (được thông qua ngày 29/11/2005) và Luật đầu tư (được thông qua ngày 29/5/2005) bắt đầu có hiệu lực. Nhân sự kiện này, bài viết này muốn mô tả những nét cơ bản về tình hình doanh nghiệp và hoạt động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cho tới thời điểm trước khi hai văn bản luật này ra đời. Những số liệu và phân tích dưới đây có thể được sử dụng để đánh giá tác động của Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp vào khu vực nông nghiệp, nông thôn trong những giai đoạn tiếp sau.

Doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn

Thuật ngữ DN NNNT nên được hiểu một cách mềm dẻo: Nông thôn không chỉ có nông nghiệp, nông dân mà còn rất nhiều hoạt động kinh tế-xã hội và các nhóm xã hội khác. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp có hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thì đều ở địa bàn nông thôn. Tuy nhiên, do ở đây chúng tôi sử dụng chủ yếu số liệu của Tổng cục thống kê nên thuật ngữ DN NNNT được hiểu là các doanh nghiệp có hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. DN NNNT có thể là doanh nghiệp tư nhân, nhà nước, liên doanh hoặc doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tại Việt Nam.

Tính đến hết năm 2004, cả nước có 91755 doanh nghiệp, trong số này có 2369 DN NNNT tương đương với tỉ lệ khoảng 2,6%. Kể từ khi Luật Doanh nghiệp lần đầu tiên được ban hành năm 1999 và có hiệu lực vào đầu năm 2000, tốc độ phát triển doanh nghiệp nói chung trong giai đoạn 2000-2004 là khoảng 217%, trong khi đó tốc độ phát triển DN NNNT gần như không thay đổi trong giai đoạn 2000-2002, thậm chí còn giảm xuống trong giai đoạn 2003-2004 (biểu 1).

Căn cứ vào chỉ báo quy mô vốn của doanh nghiệp, số liệu thống kê cho thấy rằng các DN NNNT chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là rất nhỏ: Chẳng hạn năm 2004, số DN NNNT có số vốn dưới 500 triệu chiếm tới trên 22% tổng số DN NNNT (có thể coi đây là các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ). Tính chung, các DN NNNT có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới trên 80% (2004). Xu hướng biến đổi của các DN NNNT tính theo quy mô vốn cũng không rõ rệt qua các năm: số lượng các DN NNNT có quy mô thuộc loại nhỏ và rất nhỏ có giảm xuống nhưng số lượng các doanh nghiệp ở những quy mô lớn hơn nói chung không tăng, thậm chí còn giảm xuống làm cho tổng số DN NNNT giảm xuống trong tổng số doanh nghiệp của các khu vực kinh tế (biểu 2).

(Theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP định nghĩa thì doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Đặc thù hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung ở Việt Nam hiện nay nói chung còn ở trình độ thấp, mức độ cơ khí hóa và tự động hóa chưa cao nên việc sử dụng lao động chắc chắn ở mức cao. Bởi vậy, việc sử dụng chỉ báo về quy mô vốn của doanh nghiệp có lẽ sẽ đem lại nhiều ý nghĩa hơn)

Số liệu thống kê cho biết tỉ lệ DN NNNT hoạt động bị lỗ vào khoảng 12-15% (biểu 3). Song có nhiều khả năng trên thực tế con số này có thể cao hơn rất nhiều (con số này theo thông tin trên báo chí hiện nay là khoảng 30%).

Theo một nghiên cứu của Bộ NN&PTNN thì vào năm 2001, 73,3% DN NNNT là doanh nghiệp tư nhân, còn lại là doanh nghiệp nhà nước. Tổng diện tích đất nông nghiệp các doanh nghiệp tư nhân sử dụng là 23,6 ngàn ha, thu hút 51,5 ngàn lao động. 90% DN NNNT tư nhân có qui mô nhỏ và vừa, bình quân doanh thu đạt 55 đến 60 triệu đồng/lao động, cao gấp rưỡi so với doanh nghiệp nhà nước, nhưng mức đóng góp ngân sách hầu như không đáng kể, chỉ khoảng 70 tỷ đồng năm 2000. Về phía các DN NNNT thuộc khu vực quốc doanh, 66% có dưới 5 tỷ đồng vốn, 27% doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, số nợ phải trả chiếm đến 57% tổng doanh thu. Các DN NNNT khu vực quốc doanh được giao quản lý 476 ngàn ha đất đai nhưng chỉ đưa vào hoạt động 78% diện tích đất được giao, mức đóng góp cho ngân sách chỉ đạt bình quân hơn 1 tỷ đồng/doanh nghiệp năm 2000.

Như vậy, nhìn chung DN NNNT chưa thực sự phát triển mạnh và vững chắc (thể hiện ở các chỉ báo về số lượng, quy mô và hiệu quả kinh tế), chưa tương xứng với tiềm năng cũng như vai trò của khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam cả trên phương diện xã hội (tỉ lệ dân số sống ở nông thôn) và kinh tế (tỉ lệ dân số lấy nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chính).

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngô Vi Dũng
 

NỘI DUNG KHÁC

Cúm gia cầm bao vây Việt Nam

8-8-2006

Thứ trưởng Bộ NNPTNT Bùi Bá Bổng khẳng định, sự xuất hiện trở lại của một loạt các ổ dịch cúm gia cầm tại Thái Lan, Lào và Trung Quốc mới đây cho thấy công tác phòng, chống dịch trong nước đang phải đối mặt với những nguy cơ có thể khiến dịch dễ dàng bùng phát trở lại.

Ấn phẩm Thị trường Nông sản– Cơ hội để giải mã thị trường.

7-8-2006

Việt Nam đứng đầu thế giới về một số mặt hàng xuất khẩu và kinh doanh nông sản của Việt Nam đang trở thành một ngành có vị thế quan trọng trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, nhu cầu về thông tin thị trường nông sản, đặc biệt là thông tin giá cả, diễn biến thị trường nông sản

Chỉ hạ giá nông sản thì không đủ sức cạnh tranh

4-8-2006

TP - Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, trong một "sân chơi" lớn, nếu chỉ hạ giá nông sản thì nông nghiệp nước ta sẽ không đủ sức cạnh tranh... Tiền Phong đã có cuộc trao đổi với Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn, TS Đặng Kim Sơn về những vấn đề nêu trên.

ĐBSCL xóa bỏ hệ thống kho tàng nông sản lạc hậu

26-7-2006

Trong thời gian qua mặc dù hệ thống thuỷ lợi, kênh mương nội đồng của vùng ĐBSCL chưa đầu tư đúng mức, nhưng bà con nông dân vẫn sản xuất được lúa chất lượng cao. Tuy nhiên do quá trình thu hoạch và bảo quản của chúng ta còn quá kém nên đã làm cho chất lượng lúa lại bị giảm xuống.

Thị trường cao su trong nước 6 tháng đầu năm 2006

20-7-2006

Trong 6 tháng đầu năm 2006, giá cao su trong nước và xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh và đứng ở mức khá cao do nhu cầu nhập khẩu của các nước Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ngày càng tăng, trong khi nguồn cung bị hạn chế do mưa nhiều ở Thái Lan và Indonêsia. Hơn nữa, giá dầu thô tăng cũng tác động làm tăng giá cao su.

Phân tích thu nhập hộ nông dân do thay đổi hệ thống canh tác vùng Đồng bằng sông Hồng

18-7-2006

Chiều ngày 4/7/2006, tại Hội trường Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn đã diễn ra Hội thảo báo cáo kết quả nghiên cứu “Phân tích thu nhập hộ nông dân do thay đổi hệ thống canh tác vùng Đồng bằng sông Hồng” do nhóm chuyên gia phát triển nông thôn thực hiện.

Đường lậu Thái Lan khuynh đảo thị trường

13-7-2006

Giá đường ở ĐBSCL đang giảm mạnh. Giá bán buôn của các nhà máy chỉ còn 9.600đ – 10.200đ/kg, giảm 500đ – 600đ/kg so với tháng 5. Nguyên nhân chủ yếu do lượng đường Thái Lan nhập lậu quá lớn. Ngày 1-7, đường Thái Lan nhập lậu về đến Sóc Trăng bán chỉ 9.600đ/kg.

Đường lậu Thái Lan khuynh đảo thị trường

13-7-2006

Giá đường ở ĐBSCL đang giảm mạnh. Giá bán buôn của các nhà máy chỉ còn 9.600đ – 10.200đ/kg, giảm 500đ – 600đ/kg so với tháng 5. Nguyên nhân chủ yếu do lượng đường Thái Lan nhập lậu quá lớn. Ngày 1-7, đường Thái Lan nhập lậu về đến Sóc Trăng bán chỉ 9.600đ/kg.

Luật Hợp tác xã 2003 những điều cần bàn (kỳ II)

10-7-2006

Thực ra trong nội dung của Luật Hợp tác xã 2003, cũng giống như luật năm 1996, không hề có một quy định nào nói đến việc chuyển đổi các “hợp tác xã kiểu cũ” sang “hợp tác xã kiểu mới”. Tuy nhiên, bằng nhiều hình thức và cách hiểu khác nhau trong đó theo chúng tôi quan trọng nhất chính là các nghị quyết mang tính định hướng

Nông dân và doanh nghiệp - Vì sao khó hợp tác?

7-7-2006

NNVN đã có bài viết về sự phát triển trở lại của cây thanh hao hoa vàng trên đất Sóc Sơn (Hà Nội). Điều đáng nói, đến nay loại cây này đã phát triển rầm rộ, nông dân và DN vẫn chưa thực hiện hợp đồng liên kết. Nguy cơ đổ bể, mất cân đối cung cầu sẽ rất khó tránh khỏi.

Việt Nam và Vòng đàm phán DOHA

6-7-2006

Việt Nam có thể chính thức gia nhập WTO vào cuối năm 2006. Vì vậy, nếu vòng đám phán DOHA kết thúc theo đúng kế hoạch đặt ra vào cuối năm nay thì Việt Nam sẽ không có cơ hội tham gia vào các cuộc đàm phán, nhưng sẽ phải thực hiện những điều khoản phù hợp của các cam kết từ vòng đàm phán DOHA.

Luật Hợp tác xã 2003 những điều cần bàn.

5-7-2006

Kinh tế hợp tác nói chung và hợp tác xã nói riêng là những hình thức tổ chức kinh tế-xã hội ra đời một cách khách quan trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện của Việt Nam, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã được xem là bộ phận quan trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể, một trong hai thành phần kinh tế cơ bản của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

©2025 Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường
Số 16 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội
Tel: 04-39722067, Fax: 84-4-39711062, Email: vienclcs@mae.gov.vn