ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Các điều kiện cần thiết cho việc huy động nguồn lực của khu vực tư nhân tham  gia vào hoạt động giảm phát thải khí nhà kính

Ngày đăng: 22 | 08 | 2023

Ngay từ những năm 1990, nhà nghiên cứu Panayotou đã chỉ ra vai trò của tư nhân đối với một cách tiếp cận phát triển mới, nhưng đã rất được quan tâm bấy giờ, đó là phát triển bền vững. Panayotou phân tích các nhược điểm khách quan của khối các doanh nghiệp công trong tình hình mới, ngay  cả trong những lĩnh vực vốn được coi là nên có sự tham gia của nhà nước, và so sánh với sự vận động linh hoạt cùng tiềm năng lớn của các doanh nghiệp tư nhân. Sau đó, De Vries, Sally, và Inocencio đã phân tích sâu hơn về những cơ hội đối tác các nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực môi trường, cũng như khả năng huy động nguồn lực tư nhân bằng chính sách của các nhà quản lý. Theo thời gian, các vấn đề về phát triển bền vững và môi trường ngày càng cho thấy mối liên hệ mật thiết.

Đặc biệt, một trong những vấn đề môi trường được quan tâm nhiều nhất chính là biến đổi khí hậu. OECD nghiên cứu thực tế tại nhiều quốc gia và đưa ra 24 nguyên tắc dành cho các nhà hoạch định chính sách khi thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự tham gia của tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng môi trường và giảm phát thải khí nhà kính. Mann, Porterfield, Barraguirre và Hantke-Domas cũng chỉ ra những vấn đề đáng chú ý nhằm tối ưu hóa hiệu quả tham gia của tư nhân trong cơ sở hạ tầng nước nói riêng. Đáng chú ý, Christian Grossmann đã tổng hợp công trình của 31 viện nghiên cứu trên thế giới và đưa ra kết luận về tính tất yếu của việc kinh tế tư nhân sẽ trở thành mũi nhọn trong đầu tư cho bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Từ những nghiên cứu nền tảng đó, các quốc gia đã áp dụng các biện pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân cho bảo vệ môi trường nói chung và giảm phát thải khí nhà kính nói riêng. Về cơ bản, các nhóm biện pháp này bao gồm: (1) Nhóm biện pháp mệnh lệnh - kiểm soát; (2) Nhóm biện pháp sử dụng cách tiếp cận dựa vào thị trường; (3) Nhóm biện pháp tiếp cận tự nguyện; và (4) Nhóm biện pháp nhằm nâng cao nhận thức  của doanh nghiệp tư nhân.

Tuy nhiên, trước khi thực hiện các nhóm biện pháp kể trên này, cần chuẩn bị các điều kiện nền tảng cần thiết, bao gồm:

Thứ nhất là xác định rõ ràng các quyền sở hữu (property rights) và bảo vệ chắc chắn các quyền sở hữu đó bởi pháp luật. Nhiều người nhầm tưởng rằng cơ chế thị trường gây ra ô nhiễm môi trường, do mục tiêu của các nhà sản xuất luôn là tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, thực tế là sự vắng mặt của các thị trường, thường gọi là “bi kịch của sở hữu chung” (“tragedy of the commons”), do quyền sở hữu không được xác định rõ ràng mới là bản chất và lý do của hầu hết các vấn đề môi trường. Ví dụ việc sử dụng nước tại một dòng sông thường không bị giới hạn, nếu dòng sông thuộc sở hữu chung. Điều này khiến tài nguyên nước dễ bị cạn kiệt hoặc ô nhiễm. Ngoài ra, việc không xác định rõ được quyền sở hữu sẽ khiến không hình thành được một số thị trường cần thiết và nhiều doanh nghiệp muốn cung cấp các dịch vụ bảo vệ môi trường  (ví dụ như dịch vụ xử lý ô nhiễm một dòng sông) sẽ không có thị trường để hoạt động. Ngược lại, nếu quyền sở hữu được xác định rõ ràng, kinh tế thị trường có thể điều tiết để hoạt động xử lý ô nhiễm, cũng như các hoạt động thỏa thuận bồi thường được diễn ra hiệu quả, mà không cần sự can thiệp của Nhà nước.

Hoa Kỳ là một trong những quốc gia thành công nhất trong việc phát triển kinh tế tư nhân và huy động nguồn lực tư nhân, đặc biệt là đối với các lĩnh vực môi trường. Tại đây, quyền sở hữu có thể được xác định khác nhau, tùy theo từng Bang, tuy nhiên về cơ bản là khá rõ ràng và chi tiết. Ví dụ, quyền sở hữu đối với một số dòng sông được xác định bởi luật về quyền sử dụng nước ven sông (Riparian Water Rights), quy định rõ quyền sử dụng nước sông được chia thành các đoạn gắn với quyền sở hữu của các mảnh đất hai bên bờ sông, tuy nhiên đất lòng sông là thuộc sở hữu chung của Bang. Vì vậy, khi xảy ra ô nhiễm ở một khu vực nào đó của dòng sông, các chủ sở hữu đất, những người có quyền sở hữu với các đoạn của dòng sông, thường là những người đầu tiên phát hiện ra và họ có quyền yêu cầu điều tra, khởi kiện những người gây ô nhiễm và giải quyết các xung đột theo cơ chế thị trường. Thậm chí, họ còn có thể tạo nên nhu cầu để xây dựng thị trường về dịch vụ đánh giá thiệt hại đối với dòng sông, hoặc dịch vụ xử lý ô nhiễm cho dòng sông. Việc quản lý và bảo vệ dòng sông cũng nhờ quyền sở hữu rõ ràng này mà trở nên có trách nghiệm và hiệu quả hơn.

Thứ hai là đảm bảo quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh công bằng của các doanh nghiệp. Đây là điều kiện tiên quyết để các giải pháp dựa vào thị trường có thể hoạt động hiệu quả, vốn đã được chỉ rõ trong các tiêu chí của một nền kinh tế thị trường của Mỹ từ năm 1677.

Thứ ba là khuyến khích hình thành nên các thị trường mới về bảo vệ môi trường  và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trên thực tế, khi các điều kiện kể trên về quyền sở hữu và tự do cạnh tranh được đảm bảo, chỉ cần một số chủ trương hay khuyến  khích phù hợp, kết hợp với các công cụ luật pháp của Nhà nước, thì rất nhiều thị trường mới có thể tự hình thành, huy động được nguồn lực của xã hội. Ví dụ, năm 2013, khi việc chôn lấp rác thải điện tử bị cấm tại Bang Colorado (Hoa Kỳ), ngay lập tức đã xuất hiện các doanh nghiệp đứng ra thu gom và tái chế rác thải điện tử. Như vậy, một thị trường với người mua là các hộ gia đình và người bán là các công ty cung cấp dịch vụ đã được hình thành. Kết quả là môi trường được bảo vệ, xã hội có thêm công ăn việc làm và Nhà nước không  mất chi phí xử lý ô nhiễm do rác thải điện tử. Việc các thị trường tương tự như vậy liên tục được hình thành đã khiến thu gom và xử lý rác thải trở thành một lĩnh vực sôi động và lợi nhuận cao đối với các nhà đầu tư tại Mỹ, từ đó xuất hiện các tỷ phú rác nổi tiếng như Wayne Huizenga của Công ty Quản lý chất thải (Waste Management) và Maria Rios của Công ty Chất thải quốc gia (Nation Waste).

Thứ tư là Tòa án có mức độ độc lập tư pháp cao, giải quyết tranh chấp hiệu quả. Khi các giải pháp thị trường được thực hiện, các tranh chấp có thể xảy ra do một hoặc vài bên vi phạm các quy định của thị trường, vi phạm hợp đồng, do xung đột về nhận thức hoặc lợi ích mà các bên không đi đến được thỏa thuận chung, hay thậm chí thực hiện không đúng do hiểu biết hạn chế về các thị trường mới. Khi đó, cần có tòa án, là cơ quan độc lập tư pháp, đứng ra giải quyết các tranh chấp, đảm bảo cho thị trường hoạt động hiệu quả trở lại. Việc tòa án phân xử khách quan và công bằng cũng sẽ làm tăng lòng tin của doanh nghiệp nói riêng và người dân nói chung vào khả năng vận hành kinh tế thị trường của Nhà nước, một điều rất quan trọng để thực hiện thành công các giải pháp dựa vào thị trường.

Thứ năm là hoàn thiện các biện pháp quản lý của Nhà nước, đặc biệt là các công cụ kinh tế và công cụ luật pháp. Đặc biệt lưu ý đối với cách tiếp cận thị trường, quan điểm chủ đạo khi đưa ra các biện pháp quản lý của Nhà nước là nhằm tạo điều kiện, hướng dẫn doanh nghiệp và người dân làm đúng hơn, thay vì tăng phạt hoặc tăng thu phí, thuế để gây quỹ cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Vì thế, các công cụ có tính linh động như chuyển nhượng quyền phát thải, giảm các hàng rào thị trường bằng cách trao quyền cho người dân và cung cấp thêm thông tin cho họ tham gia các thị trường, trợ cấp cho các dự án  thân thiện với môi trường như năng lượng sạch, thay đổi kỹ thuật để giảm phát thải,... đã trở thành hướng đi chính của hoạt động quản lý môi trường tại Hoa Kỳ.

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, 2021

NỘI DUNG KHÁC

Mối quan hệ giữa độ mở cửa thương mại và phát thải khí CO2 ở Việt Nam

23-8-2023

Thương mại ảnh hưởng xấu hay tốt đến môi trường là vấn đề mà các nhà kinh tế môi trường vẫn tiếp tục đi tìm câu trả lời nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu đang trở thành xu thế tất yếu. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đó về vấn đề này còn gây nhiều tranh cãi và không hoàn toàn nhất quán với nhau. Mục đích của bài viết này nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa mở cửa thương mại và ô nhiễm môi trường.

Phát triển ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thúc đẩy chuỗi giá trị sản xuất đồ gỗ xuất khẩu

23-8-2023

​​​​​​​Bài viết trình bày một số kết quả nghiên cứu tổng hợp về: i) thực trạng về mối quan hệ giữa ngành chế biến gỗ và kinh tế tuần hoàn (KTTH), qua đó khẳng định ngành công nghiệp chế biến gỗ là ngành kinh tế sinh thái, ngành KTTH. Sự phát triển của ngành đáp ứng được các mục tiêu của KTTH về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường; ii) mô hình tổng quát về KTTH trong ngành chế biến gỗ, thể hiện sự liên kết giữa các lĩnh vực từ trồng rừng, khai thác, chế biến gỗ, hệ sinh thái các ngành công nghiệp phụ trợ; iii) mô hình KTTH sử dụng phụ phẩm trong nhà máy chế biến gỗ, trong đó nêu hiệu quả của mô hình KTTH sử dụng phụ phẩm tại Công ty Cổ phần Phú Tài, Bình Định; iv) kiến nghị một  số nội dung để phát triển KTTH trong lĩnh vực chế biến gỗ.

Phát triển đô thị tăng trưởng xanh ở Việt Nam

24-8-2023

 Khu vực đô thị hiện là nơi sinh sống của hơn 55% dân số thế giới và dự báo sẽ  tăng lên 62,5% vào năm 2035, đạt tỷ lệ 68% vào năm 2050. Khu vực châu Á dự báo  sẽ đạt khoảng 2.999 triệu dân (tỷ lệ đô thị đạt 59,2%); đô thị hóa sẽ diễn ra mạnh mẽ  ở các quốc gia có thu nhập trung bình (tỷ lệ đô thị khoảng 61,5% vào năm 2035) (UN Habitat, 2021). Đô thị hóa là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển của mỗi quốc gia; đô thị hóa mang lại nhiều cơ hội về kinh tế, việc làm, giáo dục và chăm sóc y tế nhưng ngược lại đô thị hoá thiếu bền vững tạo ra những áp lực về không gian sinh sống, nhu cầu tiêu dùng năng lượng và tài nguyên lớn, chứa đựng nhiều rủi ro về ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, tội phạm, gia tăng chất thải và tác động đến môi trường sinh thái, đa dạng sinh học do đó tác động đến đến an ninh phi truyền thống, làm suy giảm tính bền vững về môi trường, gia tăng lượng phát thải khí nhà kính và tác động ngược lại đối với thành công về kinh tế (UN Habitat, 2021).

Kinh nghiệm quốc tế về một số điều kiện kinh doanh dịch vụ tài nguyên địa chất, khoáng sản

29-8-2023

 Theo Luật Đầu tư năm 2020, điều kiện đầu tư kinh doanh là điều kiện cá nhân, tổ chức phải đáp ứng khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, đây được coi là công cụ quản lý kinh tế hiệu quả đối với nhiều ngành, lĩnh vực, bao gồm cả lĩnh vực địa chất và khoáng sản.

Làng nghề tái chế nhựa trong bối cảnh thực thi EPR

29-8-2023

Quá trình đô thị hóa đã đặt ra nhiều thách thức đối với phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh việc mức sống, điều kiện sống của mọi người dân được cải thiện thì các mặt trái của quá trình phát triển cũng ngày càng bộc lộ rõ. Một trong những vấn đề nổi cộm trong các xã hội phát triển hiện nay là việc đối phó, xử lý với rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa. Phát triển kinh tế tuần hoàn đi kèm với thực thi chính sách EPR được xem là một giải pháp hiệu quả để vừa đảm bảo phát triển sản xuất - kinh doanh, vừa hài hòa được các vấn đề xã hội - môi trường.

Kịch bản tương lai cho các hệ sinh thái và dịch vụ của chúng

30-8-2023

Các kịch bản đề xuất được xây dựng dựa vào định hướng và mục tiêu của khung chính sách, các kịch bản của các ngành khác nhau tại Việt Nam; và các kịch bản của IPBES, CBD, MA. Theo đó, xu hướng thay đổi của các HST và dịch vụ của chúng ở Việt Nam đến năm 2030 được đề xuất theo 4 kịch bản: (i) kịch bản phát triển như hiện nay (ii) kịch bản cơ sở khả thi; (iii) kịch bản tăng trưởng cao hơn; và (iv) kịch bản phát triển bền vững gắn với bảo tồn.
Trong 4 kịch bản trên, kịch bản phát triển bền vững gắn với bảo tồn được xem là có xu hướng tích cực, có thể đạt được mục tiêu của Kế hoạch thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 của Chính phủ: tăng trưởng kinh tế bền vững đi đối với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, các hệ sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững.

Kinh nghiệm quốc tế về kinh tế chia sẻ trong quản lý chất thải và đề xuất khuyến nghị áp dụng cho Việt Nam

7-9-2023

​​​​​​​Cùng với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mô hình kinh tế chia sẻ (KTCS) đã phát triển mạnh những năm gần đây trên toàn thế giới ở nhiều lĩnh vực, trong đó bao gồm quản lý chất thải. Các mô hình KTCS trong quản lý chất thải có tiềm năng rất lớn trong việc thúc đẩy tái sử dụng, tái chế chất thải; đổi mới, cải thiện hiệu quả của công tác quản lý chất thải. Tuy nhiên, các mô hình KTCS trong quản lý chất thải ở Việt Nam còn hạn chế và gặp nhiều thách thức. Bài viết này tập trung làm rõ nội hàm của mô hình KTCS trong quản lý chất thải, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về KTCS trong quản lý chất thải và đưa ra khuyến nghị áp dụng cho Việt Nam.

Kinh nghiệm xác định các động lực và rào cản khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động giảm phát thải khí nhà kính

8-9-2023

​​​​​​​Các nghiên cứu và thực tiễn trên thế giới cho thấy rằng bản thân khu vực tư nhân cũng đang có những động lực rõ ràng để tham gia đóng góp vào việc giảm phát thải khí nhà kính (KNK).

Tiếp cận đất đai đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa - Những vấn đề đặt ra trong hoàn thiện chính sách đất đai

11-9-2023

   Nghị quyết số 18-NQ-TW ngày 16/6/2022 về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” đã nhận định “Cải cách hành chính trong quản lý đất đai còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; việc tiếp cận đất đai của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn...”.

Cách thức huy động nguồn lực tài chính cho bảo vệ môi trường làng nghề

15-9-2023

Cách thức huy động các nguồn lực tài chính cho xây dựng, thực hiện phương án bảo vệ môi trường (BVMT) làng nghề được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, về cơ bản có thể mô tả vắn tắt như sau:

Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái theo hướng tuần hoàn tại Vườn quốc gia Côn Đảo

21-9-2023

Vườn quốc gia (VQG) Côn Đảo thuộc hệ thống rừng đặc dụng, tổng diện tích tự nhiên: 19.883,15 ha, gồm: Phần diện tích bảo tồn rừng trên các hòn đảo: 5.883,15 ha. Phần diện tích bảo tồn biển: 14.000 ha. Ngoài ra, diện tích vùng đệm trên biển là: 20.500 ha. Do đó, VQG Côn Đảo có tiềm năng lớn về phát triển du lịch sinh thái vì sự đa dạng sinh học với nhiều loài đặc hữu hoang dã, các hệ sinh thái rừng, biển đặc sắc, nhiều phong cảnh đẹp và di tích lịch sử, văn hóa.

Đề xuất quy định bảo vệ nguồn thủy sinh trong sửa đổi Luật Tài nguyên nước

25-9-2023

Bảo vệ nguồn sinh thủy có vai trò quan trọng để giữ gìn và phục hồi nguồn nước. Bởi thế, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, trong sửa đổi Luật Tài nguyên nước lần này, cần bổ sung quy định các tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng nguồn nước hoặc có hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến nguồn nước đều phải có trách nhiệm đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa.