ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Đề xuất quy định bảo vệ nguồn thủy sinh trong sửa đổi Luật Tài nguyên nước

Ngày đăng: 25 | 09 | 2023

Bảo vệ nguồn sinh thủy có vai trò quan trọng để giữ gìn và phục hồi nguồn nước. Bởi thế, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, trong sửa đổi Luật Tài nguyên nước lần này, cần bổ sung quy định các tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng nguồn nước hoặc có hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến nguồn nước đều phải có trách nhiệm đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa.

* Cần quy định cụ thể về bảo vệ, phát triển nguồn sinh thủy và giữ nước

Điều 30 dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) về bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy quy định: Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng hồ chứa, các dự án khai thác, chế biến khoáng sản và các hoạt động khác có sử dụng hoặc ảnh hưởng đến diện tích rừng phải trồng bù diện tích rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa phải đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Nhà nước có cơ chế điều phối, phân bổ nguồn thu từ tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để đầu tư cho hoạt động bảo vệ, phát triển tài nguyên nước, bảo vệ nguồn sinh thủy trên lưu vực; có chính sách phân bổ nguồn thu từ khai thác sử dụng nước ở các địa phương hạ nguồn để chi trả cho các địa phương thượng nguồn, đảm bảo công bằng, hợp lý...

Tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách cuối tháng 8 vừa qua, đại biểu Nguyễn Anh Trí - Đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) TP. Hà Nội đề cập đến giá trị của các hồ, đập để giữ nước. Theo đại biểu Trí, hồ, đập trữ nước có giá trị rất lớn, không chỉ cấp nước mà còn giữ nước để phục vụ thủy điện, hoạt động thủy sản, du lịch… Tuy nhiên, hầu như năm nào cũng vậy, xả lũ với mục tiêu đảm bảo an toàn hồ đập, nhưng người dân lại chịu thiệt hại từ hoạt động này.

 “Cần có quy định làm tăng khả năng chịu tải của hồ đập, trong đó xây dựng nhiều vị trí tháo nước, xả lũ, phân tán nhiều phía, nhiều vùng, nhiều tỉnh… Làm được như vậy sẽ giảm tác hại từ việc xả lũ, an toàn hồ đập được tăng lên và bảo đảm được an toàn cho Nhân dân ở những vùng có xả lũ.” – Đại biểu Nguyễn anh Trí đề xuất.

Quan tâm đến quy định về nguồn sinh thủy và giữ nước, đại biểu Trần Văn Lâm, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đồng tình với đề xuất của đại biểu Nguyễn Anh Trí về tăng hệ số an toàn các hồ, đập để trữ nước. Đại biểu cho rằng, đây là một giải pháp kỹ thuật hoàn toàn khả thi nhưng giải pháp này vẫn chưa giải quyết được từ gốc, mà cần tiếp tục tăng khả năng trữ nước của thảm thực vật trên lưu vực.

Qua khảo sát các công trình hồ, đập tại tỉnh Bắc Giang, đại biểu Trần Văn Lâm cho biết có thực trạng một loạt các công trình hồ, đập đã được xây dựng nhưng không phát huy đầy đủ công năng, không tích đủ nước; mùa hè (mùa mưa) phải xả tràn do thừa nước nhưng sau đó đến mùa khô thì hồ đập cạn kiệt. Vì vậy, hiệu quả sử dụng các công trình rất thấp, bởi khả năng trữ nước sinh thủy của thảm thực vật hiện nay suy giảm một cách nghiêm trọng, nhiều nơi các hồ không phát huy được tác dụng như thiết kế ban đầu. Nguyên nhân thảm thực vật đã chuyển từ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng sang rừng sản xuất, trong khi đó rừng sản xuất khả năng trữ nước rất hạn chế. Theo đại biểu, vấn đề cần giải quyết hiện nay là tăng khả năng sinh thủy của các lưu vực sông để cấp nước cho các hồ đập tự nhiên và hồ đập nhân tạo để bảo vệ năng lực và hiệu quả hoạt động của các công trình hồ đập. 

Điều 30 của dự thảo Luật Tài nguyên nước đã nêu khá nhiều biện pháp để bảo vệ và tăng nguồn sinh thủy. Để các quy định cụ thể, mạnh mẽ hơn, đại biểu Trần Văn Lâm đề nghị cần quy định cụ thể về bảo vệ nguồn sinh thủy, trong đó cần coi đây là chính sách quốc gia và đưa vào Điều 4, đó là chính sách của Nhà nước để bảo vệ và gia tăng khả năng trữ nước sinh thủy trong các lưu vực sông. Không phải chỉ với các chính sách hiện nay, thời gian tới cần phải mở rộng các chính sách này. Trong đó mở rộng hơn nữa các đối tượng hiện nay đang khai thác, sử dụng nguồn lợi tài nguyên nước đóng góp tương xứng vào Quỹ dịch vụ môi trường rừng để lấy nguồn kinh phí bù đắp cho vấn đề bảo vệ rừng đặc dụng, bảo vệ rừng phòng hộ; hoặc trong quy hoạch các loại rừng, phải làm rõ căn cứ khoa học của việc xác định tỷ lệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng một cách hợp lý để bảo đảm khả năng sinh thủy. Các chính sách này cần có tác dụng động viên, khuyến khích để ngày càng chuyển nhiều rừng sản xuất sang rừng phòng hộ, có như vậy mới bảo vệ được môi trường, bảo vệ khả năng sinh thủy an toàn cho nguồn nước.

Cùng với đó, cần có các quy định nâng cao hoặc bảo đảm khả năng sinh thủy, giữ nước bằng thảm thực vật. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung vào Điều 10 về công tác điều tra cơ bản, lập các chiến lược quy hoạch về tài nguyên nước, trong đó bổ sung nội dung điều tra về khả năng giữ nước sinh thủy của thảm thực vật trên từng lưu vực sông, hồ; xác lập các tiêu chuẩn, căn cứ khoa học để xác định diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ tối thiểu cho từng vùng, từng khu vực, từng lưu vực cụ thể. Đồng thời, hướng tới mục tiêu lập bản đồ tổng thể quốc gia về vấn đề này để nâng cao hiệu quả quản lý, góp phần làm căn cứ cho việc lập các chiến lược quy hoạch về tài nguyên nước cũng như tăng cường công tác bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hệ thống hồ đập…

* Tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng nguồn nước phải đóng chi trả dịch vụ môi trường rừng

Khoản 5 Điều 30 dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) quy định: Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa phải đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp.

Cho ý kiến về quy định này của dự thảo luật, đại biểu Trần Văn Tuấn – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang cho rằng, việc bảo vệ nguồn sinh thủy để giữ gìn và phục hồi nguồn nước rất quan trọng. Qua khảo sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang về tình hình đập, hồ chứa nước trên địa bàn cho thấy khá nhiều vấn đề nổi lên, đặc biệt là tình trạng suy cạn, suy kiệt nguồn nước.

Nguyên nhân suy kiệt của nguồn nước đó là nguồn sinh thủy chưa bảo đảm, công tác quy hoạch rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng còn có nhiều vấn đề đặt ra, đặc biệt là chế độ khoán cho người dân, cho các tổ chức, cá nhân trong vấn đề bảo vệ rừng cũng còn bất cập. Theo quy định hiện nay, với mức khoán để bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là 300.000-400.000ha/năm là quá thấp. Với mức khoán như vậy có thể dẫn đến tình trạng chính người được khoán bảo vệ rừng sẽ trở thành những người phá rừng, sẵn sàng chuyển diện tích được giao khoán bảo vệ đó để chuyển sang rừng kinh tế, rừng trồng, bởi vì hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, đại biểu Trần Văn Tuấn đề nghị tiếp tục hoàn thiện Luật Tài nguyên nước và các luật liên quan, đặc biệt là Luật Lâm nghiệp theo hướng dành kinh phí thỏa đáng hơn nữa cho công tác khoán bảo vệ rừng, nhất là rừng phòng hộ.

Qua nghiên cứu, đại biểu cho biết, Điều 61 của Luật Lâm nghiệp hiện hành đã có quy định các loại dịch vụ môi trường rừng, có 5 dịch vụ cơ bản và quy định rất rõ bên sử dụng dịch vụ môi trường rừng phải chi trả dịch vụ môi trường rừng cho bên cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Tại Điều 63 của Luật Lâm nghiệp quy định có 6 đối tượng phải chi trả dịch vụ này, bao gồm cơ sở sản xuất thủy điện, cơ sở sản xuất, cung ứng nước sạch, cơ sở sản xuất công nghiệp; tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh gây phát thải khí nhà kính phải chi trả dịch vụ về hấp thụ, lưu giữ carbon của rừng, cơ sở nuôi trồng thủy sản và các đối tượng khác.

Tuy nhiên, trong Điều 30 của dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) chỉ quy định chỉ có tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành hồ chứa nước phải đóng tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thủy thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa nước theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp.

Theo đại biểu Trần Văn Tuấn, quy định như vậy vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ so với Luật Lâm nghiệp, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cân nhắc quy định điều này theo hướng đồng bộ với Luật Lâm nghiệp. Trong đó, chỉ cần quy định theo hướng: các tổ chức, các cá nhân khai thác và sử dụng nguồn nước hoặc có hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến nguồn nước đều phải có trách nhiệm chi trả kinh phí về dịch vụ môi trường rừng để bảo vệ vùng sinh thuỷ thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa.

Việt Khang

(Theo monre.gov.vn)

NỘI DUNG KHÁC

Quản lý tài nguyên nước: Cần quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành

25-9-2023

Chỉ khi phân định rõ trách nhiệm của từng bộ ngành, việc quản lý tài nguyên nước theo phương thức tổng hợp mới phát huy được hiệu quả, mỗi ngành phát huy được thế mạnh, nguồn tài nguyên nước được khai thác hợp lý và bền vững.

Lấp kẽ hở đấu giá quyền khai thác để minh bạch trong hoạt động khoáng sản

25-9-2023

Đấu giá quyền khai thác khoáng sản là một trong những nội dung của dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản đang lấy ý kiến nhân dân và cũng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm tại Hội thảo lấy ý kiến góp ý dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản vừa được tổ chức tại Quảng Ninh vào tháng 9 năm 2023.

Kinh tế tuần hoàn - giải pháp tốt nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tách rời ô nhiễm

25-9-2023

​​​​​​​Theo TS. Nguyễn Trung Thắng - Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, kinh tế tuần hoàn là giải pháp tốt nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tách rời ô nhiễm. Quan điểm này đã được ông trình bày tại Tọa đàm “Báo chí, truyền thông đồng hành cùng doanh nghiệp phát triển xanh” được tổ chức vào ngày 23 tháng 9 năm 2023 tại TP. Hồ Chí Minh.

Tiêu chí đánh giá kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp

26-9-2023

Bài viết đã tổng quan các vấn đề về kinh tế tuần hoàn từ khái niệm, đặc điểm kinh tế tuần hoàn và quy định pháp luật ở Việt Nam về kinh tế tuần hoàn. Theo đó, hiện nay, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở ASEAN đưa quy định về áp dụng kinh tế tuần hoàn vào trong Luật Bảo vệ môi trường với 01 quy định riêng về kinh tế tuần hoàn và nhiều quy định khác để thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống. Trên cơ sở khái quát một số phương pháp đánh giá kinh tế tuần hoàn, nội dung và nguyên tắc kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, nhóm tác giả đề xuất các tiêu chí phục vụ cho việc đánh giá kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Xã hội hóa nguồn lực để bảo vệ và phát triển tài nguyên nước

5-10-2023

Xã hội hóa ngành nước là cần thiết và thiết yếu, góp phần quan trọng trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên nước thông qua huy động các nguồn vốn, nguồn lực của các tổ chức, cá nhân, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và bảo đảm các chính sách về tài nguyên nước được thực thi một cách hiệu quả, đồng bộ. Chính sách xã hội hóa ngành nước trong việc thu hút nguồn lực tài chính đầu tư vào việc bảo vệ, phát triển, tích trữ nước, phục hồi nguồn nước đã được thể hiện rõ trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Kinh nghiệm quốc tế về quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước

5-10-2023

Nghiên cứu tìm hiểu và làm rõ kinh nghiệm quốc tế trong quy định đấu giá, chuyển nhượng và thế chấp quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước.

Xu hướng khai thác, sử dụng tài nguyên tại Việt Nam

5-10-2023

Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Dự thảo về việc ban hành Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035. Giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên khoáng sản; khai thác hiệu quả tài nguyên nước và kinh tế rừng là xu hướng khai thác, sử dụng tài nguyên của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Phát huy nguồn lực đất đai, nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam

5-10-2023

 Đất đai là tài nguyên, tài sản đặc biệt của quốc gia, bộ phận quan trọng nhất của lãnh thổ quốc gia gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của cả dân tộc; là không gian sinh tồn, sinh sống của các cộng đồng dân cư gắn liền với từng gia đình, mọi người dân; là nguồn lực to lớn để phát triển đất nước, tư liệu sản xuất đặc biệt tham gia vào tất cả các lĩnh vực hoạt động phát triển kinh tế, đời sống xã hội. Tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp trong nông nghiệp là cơ hội để Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của một quốc gia có quy mô dân số 100 triệu người trong bối cảnh nguồn lực đất đai thuộc diện thấp nhất trên thế giới tính theo đầu người.

Thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế về quản lý, sử dụng đất đô thị gắn với không gian, phân vùng sử dụng đất, hệ sinh thái tự nhiên

6-10-2023

Bài viết làm rõ thực trạng và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về quản lý, sử dụng đất đô thị gắn với không gian, phân vùng sử dụng đất, hệ sinh thái tự nhiên.

Giải pháp, chính sách khuyến khích đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào xử lý nước thải khu công nghiệp và đô thị tại Việt Nam

9-10-2023

 Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp phần lớn vào phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước. Năm 2016, khu vực tư nhân trong nước chiếm 38,6% GDP (trong tỷ lệ này, doanh nghiệp đăng ký chính thức chiếm 8,2%, khu vực hộ kinh doanh chiếm 30,43%); khu vực tư nhân nước ngoài (FDI) đóng góp 18,95% vào GDP[1].

Thực trạng và giải pháp thúc đẩy kinh tế tuần hoàn của thành phố Đà Nẵng

10-10-2023

Mô hình đô thị tuần hoàn được sử dụng trong Tuyên bố về đô thị tuần hoàn ở châu Âu; theo đó, “đô thị tuần hoàn thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn (KTTH) theo hướng tích hợp tất cả các chức năng, với sự hợp tác của dân cư đô thị, cộng đồng doanh nghiệp và giới nghiên cứu nhằm thúc đẩy các mô hình kinh doanh và hành vi kinh tế để tách rời sử dụng tài nguyên từ các hoạt động kinh tế thông qua duy trì giá trị và lợi ích càng dài càng tốt để đóng các vòng lặp vật liệu và tối thiểu hóa sử dụng tài nguyên và giảm phát sinh chất thải nguy hại. Thông qua quá trình chuyển đổi này đô thị tìm kiếm các cải thiện phúc lợi con người, giảm phát thải, bảo vệ và tăng cường đa dạng sinh học, thúc đẩy xã hội bao trùm phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững”.

Quyền bề mặt và định hướng để thực hiện ở Việt Nam

11-10-2023

Quyền bề mặt là thuật ngữ bắt nguồn từ pháp luật La Mã, đó là một vật quyền phụ thuộc được cấp bởi chủ sở hữu đất. Quyền bề mặt đã được quy định trong pháp luật của nhiều quốc gia, tuy nhiên nội hàm của nó có sự khác biệt nhất định, phụ thuộc vào chế độ sở hữu của từng nước. Ở Việt Nam, mặc dù quyền bề mặt đã được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, tuy nhiên chưa được cụ thể hóa trong pháp luật chuyên ngành và chưa được thực thi trên thực tế.