ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Công nghệ sinh học xanh - Xu thế tất yếu của tương lai

Ngày đăng: 07 | 03 | 2024

 Công nghệ sinh học xanh là xu thế tất yếu của tương lai để giải quyết các thách thức về môi trường, năng lượng, thực phẩm và y tế cho nhân loại. So với công nghệ sinh học truyền thống, công nghệ sinh học xanh có mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; nghiên cứu giảm ô nhiễm môi trường; ứng dụng trong các lĩnh vực năng lượng sạch, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Trên thế giới, công nghệ sinh học xanh đang được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như năng lượng sinh học, xử lý ô nhiễm, bảo tồn đa dạng sinh học, nông nghiệp bền vững, y sinh học...

    Việt Nam cũng coi công nghệ sinh học xanh là động lực chính để phát triển bền vững. Chính phủ đã có nhiều chính sách thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học xanh. Tuy nhiên, để phát triển mạnh mẽ công nghệ sinh học xanh, cần tăng cường đầu tư nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

    Công nghệ sinh học là công nghệ áp dụng kiến thức về sinh học, di truyền học để tạo ra các sản phẩm và quy trình có giá trị, phục vụ mục đích kinh tế - xã hội của con người. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), công nghệ sinh học là "ứng dụng các nguyên lý khoa học và kỹ thuật về các hệ thống sống hoặc các sản phẩm từ chúng để tạo ra hoặc sửa đổi các sản phẩm hoặc quy trình thực hiện một chức năng cụ thể". Tại Hoa Kỳ, công nghệ sinh học được định nghĩa là "bất kỳ ứng dụng công nghệ nào sử dụng hệ thống sinh học, sinh vật sống hoặc các phái sinh của chúng để tạo ra hoặc sửa đổi các sản phẩm hoặc quy trình nhằm mục đích cụ thể". Tại Việt Nam, Luật Công nghệ sinh học năm 2008 định nghĩa: "Công nghệ sinh học là công nghệ dựa trên cơ sở khoa học về di truyền và sinh học hiện đại để nghiên cứu và chế tạo ra các sản phẩm có giá trị kinh tế - xã hội".

    Công nghệ sinh học xanh là một lĩnh vực của công nghệ sinh học ứng dụng các quy trình sinh học để giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Về mục tiêu ứng dụng: Công nghệ sinh học xanh hướng đến bảo vệ môi trường và bền vững trong khi công nghệ sinh học truyền thống hướng đến phát triển kinh tế. Về đối tượng nghiên cứu: Công nghệ sinh học xanh tập trung nghiên cứu các quá trình sinh học có thể giảm ô nhiễm môi trường trong khi công nghệ sinh học truyền thống tập trung nghiên cứu nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Về lĩnh vực ứng dụng: Công nghệ sinh học xanh chủ yếu trong năng lượng sạch, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường trong khi công nghệ sinh học truyền thống: Y sinh, nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm.

    Trên thế giới, công nghệ sinh học xanh được kỳ vọng sẽ giải quyết các thách thức về môi trường, năng lượng, thực phẩm và y tế của nhân loại trong tương lai như nghiên cứu chuyển đổi sinh khối thành nhiên liệu sinh học như ethanol, diesel sinh học, khí sinh học...để thay thế nhiên liệu hóa thạch; Sử dụng vi sinh vật, enzyme để xử lý nước thải, khí thải, đất ô nhiễm. Công nghệ sinh học giúp xử lý triệt để các chất ô nhiễm với chi phí thấp; Nghiên cứu sản xuất các vật liệu nhựa, bao bì từ nguồn sinh học, dễ phân hủy, thân thiện môi trường; Sử dụng công nghệ di truyền để bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm. Điều chỉnh gen giúp tăng sức đề kháng với bệnh tật, thích ứng với biến đổi khí hậu của các loài; Áp dụng công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây trồng kháng sâu bệnh, chịu hạn tốt, năng suất cao. Cải thiện chất dinh dưỡng trong thực phẩm; Phát triển thuốc sinh học, liệu pháp gen, tế bào gốc để điều trị bệnh hiệu quả, an toàn.

    Việt Nam coi công nghệ sinh học xanh là động lực then chốt để phát triển kinh tế bền vững, bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Chính phủ Việt Nam cam kết đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo vệ môi trường, xử lý chất thải, nước thải tại Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2023 của Bộ Chính trị, đồng thời định hướng xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn thông qua ứng dụng công nghệ sinh học trong Chiến lược tăng trưởng xanh. Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam chú trọng ưu tiên đầu tư nghiên cứu và phát triển các sản phẩm năng lượng sinh học, vật liệu sinh học, hóa chất xanh từ nguồn nguyên liệu trong nước; Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp sạch, thực phẩm an toàn; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sinh học xanh; Hoàn thiện khung pháp lý về quản lý, đánh giá an toàn sinh học đối với các sản phẩm công nghệ sinh học; và Thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên.

    Nghị quyết 189/NQ-CP ngày 16/11/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học. Về phát triển công nghệ sinh học xanh bền vững, Nghị quyết nêu rõ: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo vệ môi trường; giảm thiểu ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; Ưu tiên phát triển công nghệ sinh học xanh để sản xuất năng lượng sạch, vật liệu thân thiện môi trường, hướng tới xây dựng nền kinh tế tuần hoàn; Sử dụng công nghệ sinh học để bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái; Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm sinh học thân thiện môi trường; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sinh học xanh.

    Để phát triển công nghệ sinh học xanh tại Việt Nam, cần sự vào cuộc mạnh mẽ của Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường để tạo hành lang pháp lý, nguồn lực và môi trường thuận lợi cho các giải pháp bền vững về công nghệ sinh học xanh được triển khai trong thực tế, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đất nước:

    Thứ nhất, tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học về công nghệ sinh học xanh: Hiện nay, nghiên cứu về công nghệ sinh học xanh còn hạn chế, cần có chính sách đầu tư mạnh mẽ hơn từ NSNN cho nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Điều này sẽ tạo tiền đề cho việc phát triển và thương mại hóa các sản phẩm công nghệ sinh học xanh trong tương lai.

    Thứ 2, cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ sinh học xanh. Cần có các cơ chế miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp nghiên cứu và sản xuất sản phẩm công nghệ sinh học xanh. Hỗ trợ vốn, công nghệ và tư vấn cho doanh nghiệp khởi nghiệp áp dụng công nghệ sinh học xanh.

    Thứ 3, cần rà soát, bổ sung sửa đổi các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan: Rà soát các tiêu chuẩn về khí thải, nước thải để khuyến khích các nhà máy áp dụng công nghệ sinh học xanh. Hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm sinh học phân hủy sinh học.

    Thứ tư, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ sinh học xanh: Đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu và nhân lực cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sinh học xanh. Hỗ trợ học bổng cho nghiên cứu sinh tham gia nghiên cứu về công nghệ sinh học xanh.

    Cuối cùng, tăng cường hợp tác quốc tế về công nghệ sinh học xanh: Hợp tác với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp quốc tế để chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Tham gia các hiệp định quốc tế về bảo vệ môi trường để thúc đẩy phát triển công nghệ sinh học xanh.

    Công nghệ sinh học xanh là xu thế tất yếu của thế giới để giải quyết các thách thức về môi trường và phát triển bền vững. Tại Việt Nam, phát triển công nghệ sinh học xanh đang được Chính phủ chú trọng thúc đẩy thông qua các chính sách ưu tiên đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp và hoàn thiện cơ chế pháp lý. Tuy nhiên, để phát triển mạnh mẽ hơn nữa, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và ứng dụng; có cơ chế đào tạo và thu hút nhân lực chất lượng cao; tăng cường hợp tác quốc tế chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cũng cần thường xuyên rà soát, hoàn thiện các chính sách, tiêu chuẩn kỹ thuật để tạo môi trường thuận lợi và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Mặc dù còn nhiều thách thức, với sự quyết tâm của Chính phủ, sự đầu tư nghiên cứu và ứng dụng của các doanh nghiệp, công nghệ sinh học xanh sẽ là giải pháp hữu hiệu giúp Việt Nam phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống người dân trong tương lai.

Chử Đức Hoàng

Chánh Văn phòng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia

Bộ Khoa học và Công nghệ

Bảo Bình

(Theo tapchimoitruong.vn)

 

 

NỘI DUNG KHÁC

Một số giải pháp xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường hệ thống công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải

7-3-2024

Trong thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) đối với các lưu vực sông đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ quan tâm, trong đó có công tác BVMT hệ thống công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải (hệ thống Bắc Hưng Hải). Hệ thống Bắc Hưng Hải là công trình thủy lợi có vai trò quan trọng, phục vụ đa mục tiêu (sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, kinh doanh, dân sinh) cho 4 tỉnh, TP: Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên và Hải Dương, nhưng do tình trạng chất thải, nước thải xả vào các hệ thống công trình thủy lợi ngày càng gia tăng dẫn đễn tình trạng ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.

Luật Đất đai năm 2024: Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai theo hướng minh bạch và đơn giản hóa

8-3-2024

Tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, thống nhất quản lý theo hướng nâng cao trách nhiệm của địa phương và kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ của Trung ương; giảm đầu mối, giảm trung gian, gắn với cải cách hành chính (CCHC), giảm phiền hà, tiêu cực. 

Luật Đất đai năm 2024 và cơ hội hiện thực hóa các chính sách về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số

12-3-2024

Trong hai thập kỷ qua, nhiều Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội và văn bản thực thi chính sách của Chính phủ về đất đai với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đã được ban hành và triển khai. Luật Đất đai năm 2024 là khuôn khổ pháp lý quan trọng nhằm thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng và góp phần hiện thực hóa các chính sách về đất đai đối với đồng bào DTTS. Bài viết này tập trung phân tích một số điểm nổi bật liên quan đến chính sách đất đai đối với đồng bào DTTS được thể hiện trong Luật Đất đai năm 2024 và một số vấn đề cần làm rõ hơn nhằm đưa những quy định này vào thực tế cuộc sống.

Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học trong thời gian tới

12-3-2024

Từ sau khi Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT (Nghị quyết số 24-NQ/TW) được ban hành, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn thiên nhiên (BTTN) và đa dạng sinh học (ĐDSH) tiếp tục được rà soát, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế.

Đổi mới quy trình, nội dung, phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

13-3-2024

Luật Đất đai 2024 đã dành 1 Chương là Chương V gồm 18 điều, từ Điều 60 đến Điều 77 quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Đề xuất hệ số K cho xác định giá trị dịch vụ môi trường trong định giá rừng tại Việt Nam

15-3-2024

  Các hệ sinh thái rừng trên thế giới bao phủ 30% diện tích bề mặt Trái đất, đóng vai trò là nguồn cung cấp các giá trị và dịch vụ quan trọng, đa dạng cho xã hội loài người. Là môi sinh sống của hơn 80% các loài sinh vật trên cạn, các hệ sinh thái rừng hỗ trợ cho việc duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học. Rừng hấp thụ và lưu trữ các-bon từ khí quyển, góp phần điều chỉnh chu trình các-bon toàn cầu và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Các hệ sinh thái rừng khỏe mạnh tạo ra và bảo tồn đất, ổn định dòng chảy, ngăn ngừa suy thoái đất và sa mạc hóa, đồng thời giảm thiểu rủi ro do thiên tai như hạn hán, lũ lụt và lở đất. Bên cạnh đó, các hệ sinh thái rừng còn là nơi có giá trị thẩm mỹ, giải trí, tinh thần cao trong nhiều bối cảnh văn hóa và xã hội. Ngoài ra, rừng còn góp phần xóa đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế bằng cách cung cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ cho nhu cầu hàng ngày và tạo thu nhập cho hàng triệu người (Micheal J. and Brian S., 2018).

Giải pháp quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu lĩnh vực Giao thông vận tải

25-3-2024

 Thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW (được ban hành tại Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 và Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 21/1/2021), Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đã xây dựng và ban hành các văn bản để cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp trong lĩnh vực GTVT.

Hướng dẫn quy trình, phương pháp và mẫu báo cáo thực hiện kiểm toán môi trường tại Việt Nam

25-3-2024

Thực hiện kiểm toán môi trường (KTMT) được xem là công cụ quản lý môi trường hiệu quả của các doanh nghiệp sản xuất. Bên cạnh đó, KTMT cũng dược xem là kênh thông tin đáng tin cậy, cung cấp cho cơ quan quản lý về tình hình quản lý môi trường của doanh nghiệp. Tại Việt Nam, mặc dù nội dung KTMT đã được một số tổ chức, đơn vị thực hiện, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn kỹ thuật chung nhất làm tài liệu để tham khảo. Do vậy, trong một số trường hợp, các nội dung KTMT chủ yếu đang được lồng ghép vào các cuộc kiểm toán tài chính hay quy trình thanh tra, kiểm tra.

Vai trò của lĩnh vực năng lượng đóng góp giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát ròng bằng “0” vào năm 2050

25-3-2024

 Năng lượng đã và đang đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Tại Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (BVMT) (gọi tắt là Nghị quyết số 24-NQ/TW), lĩnh vực năng lượng được định hướng phát triển trên quan điểm: “Chú trọng phát triển, sử dụng năng lượng tái tạo (NLTT)”. Nghị quyết đã nêu ra nhiệm vụ cụ thể là “Thúc đẩy, phát triển, sử dụng năng lượng mới, NLTT, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống, đẩy mạnh đầu tư phát triển và sử dụng năng lượng mới, NLTT; thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng theo hướng tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng mới, NLTT trong tổng năng lượng quốc gia; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển năng lượng mới, NLTT; đẩy mạnh hợp tác thăm dò, khai thác tài nguyên từ bên ngoài, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước; phát triển sản xuất các loại nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới để thay thế các loại tài nguyên truyền thống”.

Phát triển đô thị bền vững, thân thiện với môi trường và chống chịu biến đổi khí hậu

25-3-2024

    Quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh và mạnh mẽ ở nước ta, tính đến năm 2022, tỷ lệ đô thị hóa đạt 42%. Tuy nhiên, việc phát triển đô thị nhanh cũng đã tạo ra gánh nặng lên môi trường. Bên cạnh đó, BĐKH đã gây ra nhiều rủi ro về thiên tai, vì vậy, phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị theo hướng phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, ứng phó với BĐKH là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng.

Đổi mới quy định về đấu thầu dự án có sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2024

25-3-2024

​​​​​​​Đấu thầu nói chung và đấu thầu dự án có sử dụng đất nói riêng là hoạt động của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc tiếp nhận mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và đất đai trở lên có giá trị. Đấu thầu các dự án có sử dụng đất sẽ hạn chế được tình trạng tham nhũng trong giao đất, cho thuê đất. Thông qua đấu thầu các dự án có sử dụng đất với các điều kiện ràng buộc chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ, nhiều đối tượng có cơ hội tiếp cận, đăng ký tham gia cũng sẽ cho phép lựa chọn được dự án sử dụng đất tham gia đấu thầu và nhà đầu tư có khả năng tốt nhất về kỹ thuật, về tài chính để thực hiện dự án cộng với yếu tố mặt bằng sẵn có, dự án sẽ được triển khai một cách nhanh chóng, thuận lợi, đem lại lợi ích cho cả Nhà nước, nhà đầu tư và xã hội. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện lựa chọn dự án sử dụng đất để thực hiện đấu thầu ở các địa phương còn có nhiều vấn đề như: Căn cứ để lựa chọn các dự án chưa được quy định cụ thể; sự phối hợp giữa cơ quan quản lý đất đai và các cơ quan có liên quan chưa được quy định rõ ràng; vướng mắc khi thực hiện các thủ tục về đất đai như: quản lý quỹ đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, giá bồi thường về đất cho người sử dụng đất; hình thức sử dụng đất áp dụng cho chủ đầu tư;… Vì vậy, Luật Đất đai năm 2024 đã đổi mới các quy định của pháp luật đất đai về đấu thầu dự án có sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất; đảm bảo sự hài hòa lợi ích 3 bên (giữa nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất) trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Một số đề xuất giảm thiểu sự cạnh tranh và xung đột về nước mặt tại lưu vực sông Cửu Long

25-3-2024

  Sông Cửu Long là một trong các lưu vực sông lớn của Việt Nam, chảy qua 13 tỉnh, thành phố, bao gồm: TP. Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang có diện tích tự nhiên khoảng 3,96 triệu hecta với tổng lượng tài nguyên nước hàng năm khoảng 474 tỷ m3, trong đó lượng nước nội sinh từ mưa trên LVS Cửu Long khoảng 30 tỷ m3 và lượng nước từ thượng lưu chảy về LVS Cửu Long khoảng 441 tỷ m3, đóng góp khoảng 50% tổng sản lượng lúa gạo, 70% lượng trái cây của cả nước, 90% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy sản xuất khẩu, góp phần nuôi sống khoảng 40 triệu người ở các nước châu Á và châu Phi và là nơi sinh sống của trên 22% tổng dân số Việt Nam.