ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Kết quả hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (COP17) và Hội nghị các bên tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP7) - một số nhận định và kiến nghị

Ngày đăng: 10 | 04 | 2012

Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) lần thứ 17 (COP17) và Hội nghị các bên tham gia Nghị định thư Kyoto lần thứ 7 (CMP7) được tổ chức từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 11 tháng 12 năm 2011 tại thành phố biển Durban, Cộng hòa Nam Phi.

Với sự tham gia của 194 quốc gia và các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ… COP17/CMP7 được kỳ vọng đạt được thỏa thuận quốc tế mới có tính ràng buộc pháp lý ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu trong khuôn khổ Công ước Khung về biến đổi khí hậu sau năm 2012 và quyết định tương lai của Nghị định thư Kyoto khi mà thời kỳ cam kết thứ nhất sẽ kết thúc vào cuối năm 2012.

Tuy nhiên, giống với COP 15 tại Copenhagen, COP 16 tại Cancun, COP 17 đã khép lại nhưng bài toán chống biến đổi khí hậu vẫn chưa có lời giải và thế giới thêm một lần nữa phải chờ đợi. Kết quả COP 17 tại Durban được đánh giá là khá khiêm tốn và không như kỳ vọng ban đầu nhưng là những thỏa thuận tất yếu trong bối cảnh còn nhiều bất đồng và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia. Dù vậy, COP 17 cũng đã đạt được những thỏa thuận cần thiết và quan trọng, tiền đề cho các cam kết và hành động trong tương lai. Trong khuôn khổ bài viết này, xin giới thiệu tóm tắt một số kết quả chính của COP 17/CMP7:

I. KẾT QUẢ CMP7

1. Nghị định thư Kyoto

Tại CMP7, các bên đã đạt được thỏa thuận cho giai đoạn cam kết thứ hai của Nghị định thư Kyoto. Giai đoạn cam kết thứ hai sẽ bắt đầu từ ngày 01/01/2013 đến năm 2017 hoặc 2020. Các vấn đề khác như mục tiêu giảm và hạn chế lượng chất thải theo định lượng (QELROs), các thay đổi  đối với Nghị định thư Kyoto và các Phụ lục cũng sẽ được thống nhất và thông qua tại COP 18 vào cuối năm 2012 tại Doha, Quatar.

Một đề xuất đáng chú ý cho giai đoạn cam kết thứ hai của Nghị định thư Kyoto là cho phép các quốc gia thuộc Phụ lục I sử dụng các công cụ của cơ chế thị trường được quy định bởi UNFCCC hoặc các văn kiện có liên quan, REDD+ và NAMAs là những ví dụ cụ thể.


2. Cơ chế phát triển sạch (CDM)

Đối với CDM, CMP7 đã thống nhất phân phối công bằng hơn cho các hoạt động dự án CDM thông qua tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường thể chế và đào tạo cho thực hiện đường cơ sở chuẩn và các hướng dẫn khác về CDM. Yêu cầu Ban Chấp hành (EB) đơn giản hóa các thủ tục, quy trình cho các dự án CDM.

CMP7 cũng đưa ra các khuyến nghị về quản trị quốc tế, theo đó, các quốc gia yêu cầu EB tăng cường tính minh bạch, hiệu quả của các quyết định đưa ra, đồng thời số hóa,  minh bạch hóa các quy trình thẩm định, đăng ký và cấp chứng chỉ giảm phát thải…. Tuy nhiên, cơ chế khiếu nại đối với các quyết định của EB đã không được thống nhất tại CMP 7.

II. KẾT QUẢ COP17

1. Diễn đàn Durban về hành động tăng cường (DPEA)

Thành lập Diễn đàn Durban về hành động tăng cường (DPEA) là một trong những kết quả quan trọng của COP17. DPEA được hi vọng sẽ “nâng cao mức độ tham vọng với quan điểm đảm bảo nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu cao nhất có thể bởi các quốc gia”. COP17 cũng thành lập một Nhóm công tác đặc biệt của DPEA (AWG-DP) để thực hiện nhiệm vụ xây dựng một “nghị định thư, một công cụ pháp lý khác hoặc một kết quả được đồng thuận với hiệu lực pháp lý như Công ước áp dụng cho tất cả các bên tham gia,”, dự kiến sẽ được thông qua tại COP 21 vào năm 2015, có hiệu lực và được thực hiện từ năm 2020.

 

Nhiệm vụ của AWG-DP là xây dựng “một nghị định thư, một công cụ pháp lý khác hoặc một kết quả được đồng thuận thuận với hiệu lực pháp lý” - là kết quả của những thỏa hiệp vào phút cuối giữa các bên đàm phán. Trong khi EU, các nước kém phát triển nhất (LDC) và các quốc gia là đảo nhỏ đang phát triển muốn có một cam kết có tính ràng buộc pháp lý, thì một số quốc gia khác (đặc biệt là Ấn Độ) kêu gọi sử dụng ngôn từ nhẹ nhàng hơn, do lo ngại đến sự công bằng khi ràng buộc các nước đang phát triển với các nghĩa vụ pháp lý về giảm phát thải  trong khi các nước công nghiệp phát triển lại là các quốc gia chịu trách nhiệm lịch sử đối với biến đổi khí hậu. Một số quốc gia khác, ví dụ Hoa Kỳ, cũng không thể đảm bảo Nghị viện sẽ chấp thuận ký kết một thỏa thuận mới. Vì vậy, ý nghĩa của “một kết quả được đồng thuận với hiệu lực pháp lý” còn khá mơ hồ.

Ngoài hình thức, nội dung của các nghị định thư hay thỏa thuận pháp lý trong tương lai cũng không rõ ràng. Yêu cầu của AWG-DP không đề cập đến đặc tính pháp lý của các nội dung, mà chỉ nhắc đến các ngôn từ nhẹ nhàng, “trung tính” chứ  đề cập đến “các cam kết” cụ thể về mặt pháp lý.

Một điều đáng lưu ý là quyết định thành lập DPEA không có sự phân biệt giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển (Các bên tham gia thuộc Phụ lục I và không thuộc Phụ lục I) và cũng không “trách nhiệm chung nhưng có phân biệt”. Điều này hạn chế khả năng cho phép một sự phân biệt rõ ràng giữa trình độ phát triển và trách nhiệm của các quốc gia. Trong khi đó, đối với các quốc gia đang phát triển chắc chắn sẽ có những thuận lợi và khó khăn riêng khi tham gia các cam kết đối với các quốc gia phát triển.

2. Quỹ Khí hậu Xanh (GCF)

COP 15 tại Copenhagen, các quốc gia phát triển đã cam kết hình thành GCF, đến năm 2020, ít nhất 100 tỷ USD của GCF sẽ được giải ngân mỗi năm để giúp các quốc gia đang phát triển chống và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tại COP17, các quốc gia đã thông qua cơ cấu quản trị của GCF và kêu gọi sớm đưa Quỹ này đi vào hoạt động. GCF đã được chỉ định là “tổ chức của Công ước”, hoạt động theo hướng dẫn của COP và được quản lý bởi một Ban gồm đại diện của  24 quốc gia (trong đó có 12 quốc gia đang phát triển và 12 quốc gia phát triển).

GCF được kỳ vọng ​​sẽ trở thành quỹ đa phương chính về biến đổi khí hậu, nhưng trên thực tế tài khoản GCF vẫn còn là con số không. Một đề xuất thuế gọi là “đổ nhiên liệu” từ ngành công nghiệp vận tải toàn cầu đã đạt được một số bước tiến trong suốt cuộc đàm phán 14 ngày nhưng cuối cùng lại không được thông qua. Tuy nhiên, một số các nhà tài trợ, bao gồm Úc, Đan Mạch, Đức, và Hàn Quốc, đã cam kết đóng góp tài chính để khởi động Quỹ, mặc dù các chính sách, thủ tục để đóng góp thêm cho Quỹ chưa được xác định. Một vấn đề khác cũng chưa được rõ ràng là phần đóng góp từ nguồn tài chính công và từ lĩnh vực tư nhân như thế nào, trong khi đó, các nước đang phát triển thường nghiêng về lựa chọn các nguồn tài chính công.

GCF là tổ chức tài chính khá linh hoạt, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn tài chính được đơn giản hóa và cải tiến bao gồm việc tiếp cận trực tiếp, cũng như tạo điều kiện cho lĩnh vực tư nhân tiếp cận tài chính cho các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ.

3. Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+)

Các bên đã đạt được một số thỏa thuận tích cực về REDD+ trong quá trình diễn ra COP17, mặc dù vẫn còn đó một số vấn đề chưa được đề cập rõ ràng như tài chính và các biện pháp bảo đảm cho thực hiện REDD+.

Về vấn đề tài chính, các quốc gia đã thống nhất cơ chế tài chính “dựa trên kết quả” của các hoạt động REDD+ và tài chính có thể đến từ nhiều nguồn: công cộng, tư nhân, song phương, đa phương, kể cả  các nguồn thay thế, đồng thời công nhận “hoạt động dựa vào thị trường” có thể được phát triển cho thực hiện REDD+. Tuy nhiên, phạm vi, khái niệm các nguồn kinh phí hoạt động dựa vào thị trường vẫn không được xác định. Tương tự, không có sự liên kết rõ ràng giữa cơ chế dựa trên thị trường cho REDD+ và các đề xuất sửa đổi Nghị định thư Kyoto.

Các bên tham gia cũng nhất trí các nước đang phát triển tham gia vào REDD+ cần có báo cáo thực hiện các biện pháp bảo đảm về môi trường và xã hội (được nêu trong Thỏa thuận Cancun). Tuy nhiên, các bên lại không đưa ra hướng dẫn cụ thể về nội dung của báo cáo và phương thức giám sát độc lập với các báo cáo này.

4. Hành động giảm thiểu phù hợp ở cấp quốc gia (NAMAs)

Các quốc gia đã thống nhất hoàn thiện cơ chế đăng ký thí điểm cho NAMAs, cơ chế này dự kiến sẽ được hoàn thiện và thông qua tại COP18. Cơ chế đăng ký sẽ cho phép các nước đang phát triển tìm kiếm sự hỗ trợ quốc tế cho NAMAs, cũng như cho các nước phát triển và các nhà tài trợ khác gửi thông tin về “hỗ trợ tài chính, công nghệ và xây dựng năng lực” cho chuẩn bị hoặc thực hiện NAMAs. Tuy nhiên, định nghĩa thế nào là một “hành động giảm thiểu phù hợp với quốc gia” vẫn còn chưa được xác định bởi các bên. Dự kiến các bên sẽ có những diễn dàn thảo luận riêng về nội dung này và sẽ đi đến một định nghĩa thống nhất trong năm 2012.

5. Nông nghiệp và biến đổi khí hậu

Tại COP 17, các nước đã nhất trí chính thức đưa nông nghiệp vào chương trình nghị sự SBSTA. Nông nghiệp là một trong những nội dung đàm phán nhằm tìm giải pháp phù hợp giữa hoạt động giảm nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu vừa đảm bảo vấn đề an ninh lương thực toàn cầu hiện nay. Đây là một điểm mới và nội dung đàm phán mới so với các kỳ đàm phán trước đây trong khuôn khổ các COP.

6. Thích ứng với biến đổi khí hậu

Ngoài Quỹ Khí hậu Xanh, các bên cũng đã thỏa thuận về một nguồn tài chính quan trọng cho thích ứng với biến đổi khí hậu trong tương lai. Tại COP17, Ủy ban Thích ứng đã được thành lập đi vào hoạt động, bao gồm 16 thành viên, có trách nhiệm báo cáo COP về việc tăng cường  điều phối các hoạt động thích ứng với biến đối khí hậu ở quy mô toàn cầu. Tuy  nhiên, một điều đáng chú ý là không có sự đề cập rõ ràng về vai trò phối hợp của Ủy ban này với Quỹ thích ứng với biến đổi khí hậu của Nghị định thư Kyoto.

Bên cạnh, các quốc gia cũng thống nhất củng cố và tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu cho các nước nghèo và dễ bị tổn thương nhất. Kế hoạch thích ứng quốc gia (NAP) sẽ cho phép các nước đang phát triển đánh giá và giảm thiểu khả năng bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu. Thỏa thuận của COP về NAP cho rằng quá trình thực hiện NAP không nhất thiết phải tuân theo hoặc sao chép các luật lệ mà nên tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của quốc gia, do quốc gia thực hiện và phù hợp với các ưu tiên quốc gia. COP 17 cũng đưa ra các hướng dẫn cho NAP, chẳng hạn các bước chuẩn bị ban đầu, cách thức thực hiện, báo cáo, giám sát và rà soát. Tuy nhiên, tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu vẫn còn là mối băn khoăn của các quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh cơ chế tài chính toàn cầu cho biến đổi khí hậu hiện nay.

7. Cơ chế Công nghệ cho biến đổi  khí hậu

Các quốc gia đã thống nhất về Cơ chế Công nghệ cho biến đổi khí hậu, dự kiến sẽ chính thức đi vào hoạt động đầy đủ vào năm 2012. Cơ sở và điều khoản tham chiếu cho hoạt động của cơ chế này là Trung tâm và mạng lưới Công nghệ khí hậu. Các quốc gia cũng đã thống nhất với các thủ tục rõ ràng cho việc lựa chọn quốc gia đăng cai. Ban thư ký của UNFCCC đã chính thức thông báo để các quốc gia nộp đơn đăng cai đối với Trung tâm và mạng lưới công nghệ khí hậu.

III. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ KIẾN NGHỊ

Các thỏa thuận của COP17 tại Durban tác động đến các quốc gia đang phát triển trong việc xây dựng pháp luật, chính sách, thể chế quốc gia để tìm ra các cơ hội và giải quyết thách thức đặt ra do biến đổi khí hậu đem lại. Để giúp Việt Nam có thể chủ động tham gia đàm phán và thực hiện các điều ước quốc tế trong khuôn khổ COP, xin đưa ra một số nhận định, kiến nghị sau đây:

1. Cam kết cho thời kỳ hậu Nghị định thư Kyoto trong thời gian sắp tới, cùng với các chính sách nhằm đảm bảo sự phân phối công bằng hơn của các dự án CDM, tạo ra các cơ hội cho Việt Nam và các nước đang phát triển khác trong việc tiếp cận các nguồn tài chính mới để triển khai các dự án phát triển các-bon thấp.

2. Các nội dung cụ thể của COP17 về REDD+ và NAP là những khuyến khích đối với các nước đang phát triển trong việc nỗ lực đưa ra các kế hoạch cụ thể cũng như nâng cao năng lực về REDD+ và NAP. Theo các thỏa thuận của COP17, các quốc gia đang phát triển cần thiết lập quy trình để giám sát việc thực hiện các biện pháp bảo đảm cho REDD+, đồng thời xây dựng NAP theo hướng dẫn đã được đồng thuận tại COP17.

3. Việc lập kế hoạch xây dựng NAMAs nên sớm được bắt đầu, đồng thời đảm bảo có sự linh hoạt và tính dự báo đối với một số nội dung dự kiến sẽ được đưa ra và thỏa thuận tại COP18. Đặc biệt là việc đưa vấn đề nông nghiệp vào SBSTA nên được xem như một tín hiệu đầu tiên cho thấy trong những năm tới sẽ cần có các hành động hoặc chính sách quốc gia để thúc đẩy các cam kết hoặc hướng dẫn quốc tế liên quan tới lĩnh vực này. Điều này sẽ có ý nghĩa và liên quan trực tiếp đến quốc gia nông nghiệp như Việt Nam.

4. COP17 tại Durban cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các mối quan hệ song phương giữa các nước đang phát triển với các nước phát triển và các cơ quan khác để đạt được những tiến bộ trong những lĩnh vực thích ứng với khí hậu toàn cầu. Các vấn đề liên quan đến REDD+, tài trợ cho thích ứng với biến đổi khí hậu và chuyển giao công nghệ ngày càng được UNFCCC  hướng dẫn theo hướng đa phương, nhưng không có tài trợ hoặc các cơ chế hợp tác đa phương, mà là tăng cường hợp tác khí hậu song phương. Đây cũng là điều cần lưu ý đối với việc xây dựng các mối quan hệ hợp tác song phương và đa phương về biến đổi khí hậu của Việt Nam với các quốc gia khác.

5. Trong khi chưa có bất kỳ thỏa thuận nào trong khuôn khổ Diễn đàn Durban có hiệu lực cho đến năm 2020, nên điều quan trọng hiện nay là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam có cơ hội và thời gian để bắt đầu việc cải cách thể chế và pháp luật, đồng thời tăng cường năng lực thích ứng và chống biến đổi khí hậu.

Như vậy, COP 17 sẽ không được nhớ đến như một bước đột phá lịch sử trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu của nhân loại, nó cho thấy hạn chế của các hiệp ước quốc tế và hối thúc các quốc gia thực hiện các hành động và chính sách độc lập để thích ứng, chống biến đổi khí hậu. Tất cả các quốc gia phải chấp nhận một chiến lược toàn diện để thích ứng hoặc chống lại các tác động không thể tránh khỏi của biến đổi khí hậu và Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Trên cơ sở các thỏa thuận đạt được tại COP 17, cùng với những thiện chí và trách nhiệm với mái nhà chung, hi vọng bài toán chống biến đổi khí hậu sẽ có lời giải tại COP18/CMP8 - thành phố Doha, vương quốc Quatar.

 

Thạc sỹ Phan Tuấn Hùng

Chánh Văn phòng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

Bộ Tài nguyên và Môi trường

NỘI DUNG KHÁC

Tái cấu trúc nền kinh tế và đòi hỏi về một nền kinh tế xanh

29-5-2012

Nhiều năm qua, để thúc đẩy phát triển kinh tế, Việt Nam đã phải trả giá không nhỏ cho sự suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế đang mở ra cơ hội cho Việt Nam xây dựng mô hình phát triển kinh tế xanh, bền vững...

Kinh nghiệm quốc tế về mua sắm xanh và một số đề xuất triển khai áp dụng ở Việt Nam

12-6-2012

Mua sắm xanh là thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc lựa chọn một sản phẩm hoặc dịch vụ có cùng chức năng nhưng ít gây tác động xấu đến môi trường, có cùng mức giá cạnh tranh mà vẫn thể hiện được trách nhiệm xã hội (International Green Purchasing Network, Green Purchasing: The new Growth Frontier,  2010).

Những trở ngại chính về tăng trưởng xanh ở các quốc gia đang phát triển

2-10-2012

Tăng trưởng xanh (Green Growth) là hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế, với cách tiếp cận này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mà còn hướng tới phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên nuôi dưỡng cuộc sống con người, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chính vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đang tiếp cận theo xu hướng mới này nhằm hướng tới phát triển bền vững.

Kinh nghiệm quốc tế trong công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường

2-4-2013

Tài nguyên và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ sinh thái xác định, cũng có quan niệm cho rằng khi đề cập tới bảo vệ môi trường cũng có nghĩa bao hàm cả bảo vệ tài nguyên. Tuy nhiên khi nói tới tài nguyên thường gắn với hoạt động kinh tế, là yếu tố đầu vào của hệ thống kinh tế, chúng có thể đo đếm và hạch toán được trong sổ sách kế toán, còn môi trường bao gồm hệ thống tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quan con người ảnh hưởng tới đời sống và hoạt động của con người. Như vậy trong môi trường có cả tài nguyên và người ta thường sử dụng cụm từ “Môi trường thiên nhiên”.

Phương pháp luận về đánh giá tác động lên môi trường của việc thực thi chính sách

13-5-2013

Trong những năm gần đây, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, vấn đề lồng ghép các mục tiêu môi trường vào chính sách quản lý đang ngày càng được quan tâm. Việc đánh giá tác động đối với môi trường của các chính sách để đề ra các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực là rất quan trọng.

Nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

6-11-2013

Tính đến nay, kể từ khi đổi mới (1986), Việt Nam đã mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhờ đó đã mang lại tăng trưởng kinh tế liên tục và có một sự tăng tiến vượt bậc, từ vị trí là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, nay đã bước vào ngưỡng của các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.

Giải pháp để giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với giá thị trường ở Việt Nam

1-12-2013

Kể từ năm 1986, với chính sách “mở cửa”,  kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ  mô hình quản lý “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” sang mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cùng với sự chuyển đổi này những chính sách quản lý đất đai cũng được điều chỉnh để phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Khai thác, chế biến khoáng sản cho hôm nay và cho mai sau - vấn đề lựa chọn khôn khéo và đánh đổi qua ví dụ sa khoáng titan ven biển miền Trung

2-12-2013

Việt Nam nằm ở vị trí giao nhau của 2 vành đai sinh khoáng: vành đai Tây Thái Bình Dương và vành đai Địa Trung Hải, vì vậy tài nguyên khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại và tương đối phong phú. Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.

Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

14-1-2014

Chiến lược tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012, để thực hiện chiến lược đó, một trong các nội dung quan trọng là huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng xanh đã xác định. Tuy nhiên huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với những yêu cầu của Chiến lược đã đề ra.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt nam và khả năng đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế.

1-4-2014

Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng. Việt  Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu-năng lượng đa dạng đầy đủ các chủng loại như than, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới mà chúng ta còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường.I.    Khái quát về nguồn nhiên liệu, năng lượng và khả năng khai thác của Viêt Nam.-    Nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta, trước hết phải kể đến đó là than, khai thác và sử dụng than ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, từ khi người Pháp đến nước ta cách đấy hàng trăm năm, mức độ khai thác, sử dụng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xét về trữ lượng, tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Vê trữ lượng và chủng loại than phân theo các cấp và của Việt Nam thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây.Bảng 1. Trữ lượng than phân theo các cấp và các chủng loại thanHạng mục    Trữ l¬ượng xác minh (TK-TD)    Phân chia trữ lượng đã xác minh theo cấp (1000 tấn) A+B+C    A+B    C 1    C 2    PTổng cộng      6 140 683    5 629 252    356 789    2 264 480    3 007 983    511 4311    Bể than QN     4 121 745    4121745    301335    1508643    2311767    0 Vùng nội địa-TKV     165 110    165110    55454    91901    17755    0 Các mỏ than địa phương      37 434    18478    0    10238    8240    18956 Vùng than ĐBSH     1 580 956    1088481    0    524871    563610    492475 Tổng Antraxit+ khác     5 905 245     5 393 814     356 789     2 135 653     2 901 372     511 4312    Than bùn     235 438    235 438    0    128 827    106 611    0Nguồn: Trung tâm Tư vấn mỏ và Công Nghiệp-TVN, 2008. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Về khả năng khai thác than, dựa trên cơ sở dự báo cho giai đoạn 2015-2030 trong quy hoạch phát triển ngành than theo số liệu bảng 2 dưới đây cho thấy:Bảng 2. Tổng hợp khả năng khai thác than đến năm 2030 Năm    2015    2020    2025    2030Sản lượng (triệu tấn)    55-58    60-65    66-70    Trên 75Nguồn: P3, số 60/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.-    Về dầu khí, cho đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%, chi tiết thể hiện cụ thể thông qua bảng số liệu số 3 dưới đây về trữ lượng đã được xác minh và chưa được xác minh.Bảng 3. Tổng hợp trữ lượng dầu khí đã xác minh và chưa xác minh.Danh mục    Tổng (tỷ tấn dầu quy đổi-TOE)Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí    3,8 - 4,2Trong đó: - Trữ lượng đã xác minh- Chưa xác minh    1,05 – 1,142,75 – 3,06Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Từ năm 2015-2025 khả năng khai thác được thể hiện thông qua bảng 4 dưới đây.Bảng 4. Quy hoạch khai thác dầu thô đến năm 2025 Năm    2015    2020    2025PA cơ sở (106 tấn)    20,0    20,7    21,7Trong đó nội địa (106 tấn)    17,0    16,3    16,2Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Sự sụt giảm về khai thác dầu thô sẽ phải thay thế và bù đắp vào các nguồn nhiên liệu năng lượng tiềm năng khác nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.-    Về Thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa.Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng chúng ta có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện nay các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và  700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác.-    Về năng lượng mặt trời, với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực nam bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…, một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường, mặt khác cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đén mức tới hạn thì nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn.-    Năng lượng sinh khối, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy chúng ta có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn, đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây tính toán tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, tuy nhiên mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình, trong tương lai đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam.-    Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB) như vậy nếu so với tiềm năng của thủy điện điền thì nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. Chúng ta đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra, thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện nếu không có trợ giá của Nhà nước.-    Năng lượng địa nhiệt, đây là nguồn năng lượng trong lòng đất, chúng ta cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung.-    Các dạng năng lượng khác, ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, từ kinh nghiệm khai thác các nguồn năng lượng khác đã có trên thế giới, ở Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dò hải lưu, băng cháy dưới đáy biển, chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn.II.    Tương quan kinh tế và năng lượng ở Việt Nam.Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030, trong đó đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự bảo đến năm 2030.Về kịch bản tăng trưởng kinh tế  tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư được thể hiện thông qua bảng 5 dưới đây.Bảng 5. Dự báo tăng trưởng GDP giai đoạn đến 2030Lĩnh vực    2011-2015    2016-2020    2021-2030P/A    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    CaoTăng trưởng GDP(%)    7,0    7,5    8,0    7,0    8,0    8,4    7,2    7,8    8,6Nông-lâm-thuỷ sản (%)    2,7    3,0    3,0    2,0    2,2    2,2    2,0    2,2    2,2CN-xây dựng(%)    7,5    8,4    9,0    7,5    8,6    9,3    7,4    8,1    9,1Dịch vụ (%)    8,0    8,2    8,7    8,0    9,0    9,3    8,0    8,6    9,2Nguồn: Nhóm nghiên cứu của Bộ KH&ĐT hỗ trợ lập TSĐ VII. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Như vậy từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông-lâm-thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp-xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuốngs còn 18,2% , sử dụng khí đốt tăng từ 1%lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030.Đối với sử dụng năng lượng dự báo cho các ngành, trên cơ sở tính toán và dự báo theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, kết quả đưa ra được thể hiện thông qua biểu đồ 1 dưới đây.Biểu đồ 1: Các lĩnh vực sử dụng năng lượng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ cho thấy, xét trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030 được các chuyên gia dự báo có một sự tăng đều thông qua biểu đồ 2 dưới đây.Biểu đồ 2. Tương quan kinh tế và NL, từ năm 2005 đến 2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ 2 cho thấy so sánh tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, từ năm 2025 đến năm 2030 khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm.III.Đề xuất giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó đối với ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kính tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản như sau.Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà chúng ta có ưu thế.Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng chúng ta không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, chúng ta nên nhập khẩu, chăng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập.Thứ ba, về lộ trình chúng ta buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy chúng ta sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra,Thứ tư, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo.Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen giống như văn hóa người Nhật. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ.Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả.Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, tuy nhiên chúng ta thực hiện theo định hướng chung của thế giới, chính vì vậy đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo.Kết luận.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030 chúng ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới chúng ta có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng chúng ta có thế mạnh.TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXBCTQG-Hà Nội 2011. 2.Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP). Dự án “tăng cường năng lực lồng ghép phát tiển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. Nghiên cứu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2011-2020. Báo cáo “Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH”. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ. 3.Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 4.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013. 5.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013.PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

6-4-2014

      Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng.

Đánh giá ảnh hưởng một số tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với khu vực ven biển thành phố Đà Nẵng

9-8-2015

Việt Nam có đới bờ biển dài hơn 3.200km với một chuỗi đô thị lớn, tập trung cư dân đông đúc, kinh tế phát triển đa ngành, nhưng rất dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu. Đối với khu vực bờ biển Trung Bộ trong những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan: bão không theo quy luật; mưa trái mùa; triều cường biên độ lớn… xuất hiện ngày càng nhiều về tần suất, càng mạnh về cường độ; có lúc vượt ngưỡng chịu tải của môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư, dẫn đến thảm họa môi trường, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các đô thị ven biển.