ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

Ngày đăng: 14 | 01 | 2014

Chiến lược tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012, để thực hiện chiến lược đó, một trong các nội dung quan trọng là huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng xanh đã xác định. Tuy nhiên huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với những yêu cầu của Chiến lược đã đề ra.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, nhất là mực nước biển dâng, để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế và liên kết các đô thị trong vùng này cần hướng tới một nền kinh tế xanh, trong đó vai trò tăng trưởng xanh là động lực cơ bản. Muốn vậy cần phải có những cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh không chỉ cho cả nước mà còn có cơ chế đặc thù của vùng để liên kết các đô thị phát triển theo hướng kinh tế xanh.

I. Những Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia mặc dù mới được ban hành hơn một năm, hiện nay đang quá trình xây dựng và hoàn thiện chương trình hành động để thực hiện Chiến lược này ở nước ta, nhưng việc triển khai đã được khởi động ở một số địa phương như Quảng Nam, hay một số Hội thảo, Hội nghị nhằm huy động nguồn lực tài chính cho chiến lược này đã được thực hiện ở Hà Nội do Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì với sự tham gia của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước.

- Về chủ trương của Đảng, sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, trong đó nhiệm vụ trọng tâm đã khẳng định “Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”, để thực hiện nhiệm vụ này liên quan đến giải pháp chủ yếu, nội dung của giải pháp thứ tư cũng đã chỉ ra “Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” điều đó cũng phù hợp với thực hiện nhiệm vụ theo hướng tăng trưởng xanh.

- Đối với Chính sách của Nhà nước, Chính phủ đã ban hành quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012 về “phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, mặc dù ban hành trước quyết định số 1393/QĐ-TTg, liên quan đến tăng trưởng xanh, nhưng đã đưa ra chỉ tiêu giám sát trong số các chỉ tiêu tổng hợp đó là GDP xanh, đối với cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực tài Chính thể hiện các nhóm giải pháp có giải pháp thứ hai về “tăng cường các nguồn lực tài chính để thực hiện phát triển bền vững”. Trong quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25-9-2012 “phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”, đối với “Giải pháp thực hiện”, trong nội dung giải pháp số 14 về “Huy động nguồn lực thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh” với 4 nội dung đưa ra, đáng chú ý có nội dung thứ hai đã chỉ rõ “Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh theo tiêu chí tăng trưởng xanh”. Như vậy với quyết định của Chính phủ, việc xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh đã được khẳng đinh rõ ràng. Đối với Quốc Hội, là cơ quan lập pháp, hiện nay đang quá trình nghiên cứu để nhận dạng, học hỏi kinh nghiệm các nước nhằm tiến tới xác lập khung thể chế cho tăng trưởng xanh ở nước ta.

Như vậy từ chủ trương của Đảng đến Chính sách của Nhà nước đã khẳng định tăng trưởng xanh là hướng đi tất yếu của chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trong thời gian sắp tới. Để thực hiện yêu cầu này đòi hỏi phải có một cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính hiệu quả và đa dạng từ ngân sách Nhà nước, đị phương và trong xã Hội nhằm đầu tư cho tăng trưởng xanh.

II. Đề xuất giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

1. Cơ sở thực tiễn đề xuất các giải pháp huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh.

- Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nếu tiếp cận theo hướng kinh tế xanh sẽ mang lại cho nền kinh tế không chỉ là phúc lợi xã hội mà còn góp phần khôi phục, duy trì và phát triển hệ sinh thái, giảm rủi ro môi trường đảm bảo phát triển bền vững. Theo kết qủa nghiên cứu của các tác giả trong tài liệu “Hướng tới nền kinh tế xanh” do chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) công bố năm 2011, nếu thực hiện mô hình kịch bản đầu tư xanh hàng năm với số vốn khoảng 2% GDP toàn cầu (Khoảng 1300 tỷ USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số (0,5% GDP) tương đương với số tiền 350 tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh vực sử dụng nhiều vốn tự nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nước sạch và thủy sản. Cũng theo tính toán của các nhà nghiên cứu kinh tế xanh, giai đoạn 2011-2050 các khoản đầu tư sẽ tăng lên do tăng trưởng kinh tế, đến năm 2050 đạt 3,9 nghìn tỷ USD (tính theo tỷ giá năm 2010), khi đó thế giới sẽ chuyển dịch các hoạt động đầu tư “nâu” sang các hoạt động đầu tư “xanh”, xét về mô hình kinh tế vĩ mô trong dài hạn, với mức độ đầu tư này sẽ có một sự cải thiện đáng kể theo hướng kinh tế xanh và sẽ làm tăng tổng lượng của cải toàn cầu. Đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh còn tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, theo tính toán của UNEP năm 2009 ở châu Âu và Mỹ, việc đầu tư tài chính xây dựng các tòa nhà xanh đã tạo ra 2-3,5 triệu việc làm. Ở Trung Quốc, đầu tư cho lĩnh vực tái chế chất thải đã tạo ra 10 triệu việc làm và doanh thu 17 tỷ USD/năm. Ở các nước đang phát triển, theo tính toán và dự báo của ngân hàng thế giới (WB), đối với nhu cầu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xanh như năng lượng, xây dựng, vận tải trên toàn cầu có thể lên tới 563 tỷ USD vào năm 2030 cùng với 100 tỷ USD thích ứng với biến đổi khí hậu. Từ các cơ sở dữ liệu này cho thấy nếu đầu tư vào kinh tế xanh tạo ra tăng trưởng xanh là chiến lược dài hạn cho phát triển bền vững trong tương lai.

Về thể chế tài chính huy động đầu tư cho tăng trưởng xanh hiện nay trên thế giới cũng đang quá trình nghiên cứu, chưa có nhiều bài học kinh nghiệm. Tuy nhiên trong nội dung tăng trưởng xanh, một yếu tố quan trọng nhất mà các quốc gia trên thế giới đều hướng tới, đó là gắn bó chặt chẽ với biến đổi khí hậu, đầu tư tài chính cho giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu đã có những đề xuất về thể chế và chính sách cho các nước đang phát triển thể hiện ở hình 1dưới đây, chúng ta có thể tham khảo.

Hình 1: Các dòng tài chính và đầu tư cho BĐKH ở các nước đang phát triển.


Nguồn: MPI, UNDP-Huy động nguồn tài chính ứng phó với biến đổi khí hậu. Báo cáo nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách huy động và sử dụng vốn ODA và các nguồn tài chính bên ngoài cho ứng phó với Biến đổi khí hậu ở Việt Nam- Hà nội 7/2011- trích từ “A.Atteridge và khác, những thể chế tài chính song phương và BĐKH: Tổng quan danh mục khí hậu, Viện môi trường Stockholm, 2009”.

Như vậy để huy động nguồn tài chính cho biến đổi khí hậu cơ bản có hai nguồn, đó là từ ngân sách Chính phủ và thị trường vốn. Đối với đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh, cơ bản cũng xuất phát từ hai nguồn này.

- Thực tiễn của Việt Nam, đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh hiện nay chưa được phân biệt rạch ròi, bởi lẽ chiến lược tăng trưởng xanh mới ra đời năm 2012, hiện chưa có chương trình hành động và chưa có tiêu chí cho đầu tư tài chính vào tăng trưởng xanh. Nếu theo mô hình đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh hàng năm theo các ngành như UNEP khởi xướng gồm 9 lĩnh vực: Nông nghiệp, xây dựng, cung cấp năng lượng, ngư nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông, chất thải và nước thì chúng ta cũng đã tiến hành từ trước đến nay, nhưng phân biệt rạch ròi tiêu chí nào là đầu tư cho tăng trưởng xanh thì chưa có, do vậy cần sớm có tiêu chí đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh đối với các ngành và lĩnh vực.

Nếu xem xét đầu tư tài chính gần với tăng trưởng xanh theo cách nhìn nhận của UNEP đối với các ngành, những năm vừa qua chúng ta cũng đã tiến hành thực hiện đầu tư tài chính dưới nhiều hình thức và thành phần kinh tế khác nhau, đối với đầu tư từ ngân sách Nhà nước có chương tình 327 trồng lại rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, sau đó kế tiếp là chương trình 5 triệu ha rừng. Trong lĩnh vực môi trường mức chi cho công tác bảo vệ môi trường hàng năm là 1% tổng chi ngân sách.... Nguồn tài chính đầu tư nước ngoài dưới các hình thức khác nhau cũng liên tục tăng, nhất là lĩnh vực bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên và biến đổi khí hậu, chúng ta đã giảỉ quyết khá tốt về đầu tư tài chính cho giảm nghèo, nước sạch và hợp vệ sinh. Đối với Biên đổi khí hậu, không chỉ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước theo chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu mà chúng ta còn nhận được nguồn tài trợ quốc tế khá lớn tính đến năm 2011 đã có khoảng 1,2 tỷ USD đầu tư tài chính dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu cho thích ứng với biến đổi khí hậu, ngoài ra chúng ta cũng đã có cơ chế chính sách thu hút nguồn vốn tài chính xã hội hóa khuyến khích đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau liên quan đến tăng trưởng xanh. Mặt khác từ khi chúng ta gia nhập WTO (năm 2007), với chính sách đẩy mạnh hội nhập kinh tế thế giới nhằm tăng thu hút đầu tư nước ngoài và huy động nguồn tài chính của các thành phần kinh tế khác nhau, so với trước đây nguồn vốn sau một năm đã tăng đáng kể, tuy nhiên do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 lượng đầu tư tài chính giảm sút. Thống kê tính toán thể hiện thông qua biểu đồ dưới đây.

Hình 1: Tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội

(Theo giá so sánh 1994)


Nguồn:Nguyễn Đăng Bình, tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê (2011a, 2011b, 2012b)

Kết quả nghiên cứu tổng dòng vốn đầu tư toàn xã hội (ĐTTXH) vào Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO cho thấy đã tăng mạnh trong năm đầu tiên gia nhập WTO nhờ những tín hiệu lạc quan của việc thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân: dòng vốn FDI tăng kỷ lục (93,4%), khu vực ngoài Nhà nước cũng tăng cao nhất trong nhiều năm (26,9%). Năm 2007 cũng là năm tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế tăng cao nhất đạt mức 53,9% theo giá thực tế. Một trong những nguyên nhân ĐTTXH năm 2008 tăng thấp hơn là do chính sách thắt chặt đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước nhằm đối phó với tình hình lạm phát cao (đầu tư của khu vực này giảm 2,5% so với năm 2007) và những khó khăn của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước (đầu tư của khu vực này giảm 3,5% so với năm 2007). Mặc dù vậy, đầu tư của khu vực FDI vẫn tăng 36,1% cho thấy dòng vốn FDI vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam trong năm 2008 nhờ những thuận lợi về môi trường đầu tư sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2009, mặc dù Chính phủ áp dụng các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó có kích cầu đầu tư (đầu tư của khu vực Nhà nước tăng 34,6%) để ngăn chặn suy giảm và hạn chế ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, nhưng do đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm (-8,6%), nên tổng vốn ĐTTXH chỉ tăng 11,4%. Từ năm 2010 đến 2012, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình đầu tư, kinh doanh. Từ năm 2011, Chính phủ ttriếp tịc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có các biện pháp cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư của Nhà nước, thắt chặt tín dụng. Do đó, vốn ĐTTXH từ mức tăng trưởng 7,8% năm 2010 đã tăng trưởng âm (-9,3%) vào năm 2011, mức tăng trưởng âm này chưa từng có từ trước tới nay, báo hiệu một sự khó khăn còn tiếp diễn cho nền kinh tế đến nay.

Nếu xem xét đầu tư tài chính theo khu vực kinh tế giữa Nhà nước và ngoài Nhà nước, xu hướng đầu tư ngoài Nhà nước có chiều hướng tăng trưởng cao hơn so với khu vực Nhà nước. Sau khi gia nhập WTO, trừ năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Trong 5 năm sau gia nhập WTO, vốn đầu tư của khu vực FDI tăng bình quân 16,8%/năm, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 10,9%/năm, cao hơn đáng kể so với mức tăng 2,8%/năm của của khu vực Nhà nước (Nguyễn Đăng Bình). Nhìn nhận tăng trưởng vốn đầu tư theo khu vực kinh tế thể hiện thông qua biểu đồ hinh 2 dưới đây.

Hình 2: Tăng trưởng vốn đầu tư theo từng khu vực kinh tế

(Theo giá so sánh 1994)


Nguồn: Nguyễn Đăng Bình-Số liệu của Tổng cục Thống kê (2011a, 2011b, 2012b)

Từ kết quả đầu tư toàn xã hội những năm vừa qua cho thấy xu hướng đầu tư tài chính cho toàn nền kinh tế nói chung và cho các ngành nói riêng sẽ có sự thay đổi lớn, nguồn vốn ngoài xã hội sẽ tăng, còn nguồn vốn đầu tư của Nhà nước giảm, có sự thay đổi đầu tư trong cơ cấu ngành và thành phần kinh tế, nhất là trong bối cảnh của xu hướng toàn cầu đang chuyển từ ”nền kinh tế nâu” sang ”nền kinh tế xanh” Việt Nam cũng sẽ nằm trong xu hướng đó. Tuy nhiên huy động đầu tư tài chính cho nền kinh tế nói chung và tăng trưởng xanh nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, ngoài những thể chế, chính sách đưa ra có tính thuyết phục còn phải tính tới những rủi ro do tác động của bên ngoài, của xu thế chung có tính toàn cầu và sự biến động của nội lực, những nguồn tài chính trong nước.

2. Đề xuất giải pháp huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

Để có nguồn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh cần có một cơ chế, chính sách hợp lý dựa trên cơ sở cơ chế, chính sách tài chính hiện hành của Việt Nam có sự tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Đặc biệt cần bám vào nhiệm vụ chiến lược đã đề ra trong quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành về ” Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”.Trong đó giải pháp thực hiện ở mục 14 như đã nêu ở trên đã đưa ra các giải pháp chung nhằm ban hành cơ chế, Chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, từ giải pháp chung đó, cần phải triển khai cụ thể và chi tiết hơn, trước hết cần làm rõ thế nào là ”tiêu chí tăng trưởng xanh” cho các ngành và các lĩnh vực để ưu tiên huy động nguồn lực tài chính đầu tư . Những cơ chế, chính sách sau đây cần hướng tới nhằm huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh.

- Thứ nhất, cần sớm hoàn thành kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020 để được phê duyệt, trong đó có hai nội dung quan trọng cần triển khai ngay đó là:

+ Giao Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì cùng các Bộ ngành liên quan sớm hoàn thành khung thể chế tăng trưởng xanh đến năm 2020, trong đó cần làm rõ những yêu cầu cơ bản của tăng trưởng xanh và cơ cấu lại ngành kinh tế theo hướng xây dựng một nền kinh tế xanh.

+ Giao Bộ tài chính chủ trì và các bộ ngành liên quan như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài nguyên và môi trường xây dựng khung chính sách tài chính cho tăng trưởng xanh. Trong đó thể hiện những nội dung cơ bản cần huy động nguồn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh theo các tiêu chí của tăng trưởng xanh đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương.

- Thứ hai, như đã phân tích ở trên xu hướng đầu tư tài chính hiện nay sẽ có sự gia tăng của xã hội và giảm ngân sách Nhà nước, chính vì vậy Chính sách đầu tư tài chính nên hướng vào xã hội, phát huy tiềm lực tài chính doanh nghiệp, trong dân và nước ngoài sẽ hiệu quả và phù hợp hơn với xu thế phát triển hướng tới nền kinh tế xanh. Muốn vậy cần rà soát và tạo lập thị trường tốt hơn cho khuyến khích tài chính đầu tư vào tăng trưởng xanh, hình thành thị trường vốn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh trong tương lai.

- Thứ ba,muốn có nguồn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh, phải đẩy mạnh cơ chế tăng nguồn thu lấy từ những nguồn vốn của tự nhiên thông qua hệ thống thuế, phí, phạt vi phạm..., chính vì vậy cần đánh giá, rà soát lại các cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp liên quan đến tăng nguồn thu hiện hành từ đó có những bổ sung phù hợp. Hiện nay ta đã có thuế môi trường, thuế tài nguyên, Nghị định thu phí nước thải, Nghị định chi trả dịch vụ môi trường, Nghị định bồi hoàn thiệt hại môi trường..., nhưng còn nhiều bất cập, nhất là thuế môi trường và thuế tài nguyên cần phải xem lại. So với các nước khác, thuế suất tài nguyên của nước ta còn thấp, nhất là các kim loại quý hiếm, cần phải điều chỉnh tăng.

- Thứ tư, cần phân cấp rõ nguồn vốn tài chính trung ương và địa phương đầu tư cho tăng trưởng xanh, phát huy nội lực và thế mạnh tài chính của địa phương để đầu tư cho tăng trưởng xanh. Muốn vậy cần có sự cân đối lại tỷ lệ đóng góp giữa trung ương và địa phương vào tăng trưởng xanh, cần có cơ chế khuyến khích và hình thức khen thưởng rõ ràng đối với những địa phương thực hiện tốt đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh.

- Thứ năm, đối với doanh nghiệp, thông qua chính sách ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế , phí, cho vay tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ xanh, việc làm xanh để tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trưởng.

- Thứ sáu, đối với nguồn lực tài chính bên ngoài như nguồn vốn ODA, nguồn vốn của các tổ chức quốc tế..., cần xây dựng và hoàn thiện thể chế tài chính song phương và thể chế tài chính đa phương đầu tư cho tăng trưởng xanh.

- Thứ bảy, sớm thành lập quỹ hỗ trợ kinh tế xanh, cũng gần giống như các nguồn quỹ khác, đây là một cơ chế tài chính có tính độc lập, hỗ trợ cho tăng trưởng xanh, việc hình thành quỹ này sẽ là địa chỉ thu hút các nguồn tài chính của Nhà nước và xã hội bổ sung cho đầu tư tài chính tăng trưởng xanh và bảo toàn vốn phát triển kinh tế xanh.

Kết luận.

Nhằm tăng nguồn đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh đòi hỏi phải có những cơ chế, chính sách phù hợp. Muốn vậy cần phải rà soát lại các chủ trương, chính sách, hệ thống luật pháp hiện hành liên quan đến huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển ngành và các lĩnh vực, cơ chế chính sách nào đã có đầu tư gần với tăng trưởng xanh. Mặt khác, chúng ta cũng cần học hỏi kinh nghiệm của thế giới, nhất là các nước đã có những thành công nhất định trong đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh như Hàn quốc, Indonexia, Trung Quốc, Băngladet... từ đó vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta để có một thể chế và chính sách phù hợp.

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 1.  Ban chấp hành trung ương. Số 41-NQ/TW. “Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường  trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Hà nội ngày 15-11-2004.

2. Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững (RIO+20). ”Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam”. Hà nội, 05-2012.

3. Nguyễn Đăng Bình. ”Báo cáo đánh giá tình hình đầu tư của Việt nam sau 5 năm gia nhập WTO và các khuyến nghị chính sách”. Hà nội thánh 8-2012

4. Bộ kế hoạch và đầu tư. ”Huy động nguồn tài chính ứng phó với biến đổi khí hậu”. Báo cáo nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách huy động và sử dụng vốn ODA và các nguồn tài chính bên ngoài cho ứng phó với Biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Hà nội tháng 7/2011.

5. Chính phủ. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25-09-2012. ”Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”.

6. UNEP; ISPONRE; Hanns Seidel Foundation. ”Hướng tới nền kinh tế xanh. Lộ trình cho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo”. Báo cáo Tổng hợp Phục vụ các Nhà hoạch định Chính sách. NXBNN-Hà Nội, 2011.




NỘI DUNG KHÁC

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt nam và khả năng đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế.

1-4-2014

Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng. Việt  Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu-năng lượng đa dạng đầy đủ các chủng loại như than, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới mà chúng ta còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường.I.    Khái quát về nguồn nhiên liệu, năng lượng và khả năng khai thác của Viêt Nam.-    Nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta, trước hết phải kể đến đó là than, khai thác và sử dụng than ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, từ khi người Pháp đến nước ta cách đấy hàng trăm năm, mức độ khai thác, sử dụng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xét về trữ lượng, tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Vê trữ lượng và chủng loại than phân theo các cấp và của Việt Nam thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây.Bảng 1. Trữ lượng than phân theo các cấp và các chủng loại thanHạng mục    Trữ l¬ượng xác minh (TK-TD)    Phân chia trữ lượng đã xác minh theo cấp (1000 tấn) A+B+C    A+B    C 1    C 2    PTổng cộng      6 140 683    5 629 252    356 789    2 264 480    3 007 983    511 4311    Bể than QN     4 121 745    4121745    301335    1508643    2311767    0 Vùng nội địa-TKV     165 110    165110    55454    91901    17755    0 Các mỏ than địa phương      37 434    18478    0    10238    8240    18956 Vùng than ĐBSH     1 580 956    1088481    0    524871    563610    492475 Tổng Antraxit+ khác     5 905 245     5 393 814     356 789     2 135 653     2 901 372     511 4312    Than bùn     235 438    235 438    0    128 827    106 611    0Nguồn: Trung tâm Tư vấn mỏ và Công Nghiệp-TVN, 2008. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Về khả năng khai thác than, dựa trên cơ sở dự báo cho giai đoạn 2015-2030 trong quy hoạch phát triển ngành than theo số liệu bảng 2 dưới đây cho thấy:Bảng 2. Tổng hợp khả năng khai thác than đến năm 2030 Năm    2015    2020    2025    2030Sản lượng (triệu tấn)    55-58    60-65    66-70    Trên 75Nguồn: P3, số 60/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.-    Về dầu khí, cho đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%, chi tiết thể hiện cụ thể thông qua bảng số liệu số 3 dưới đây về trữ lượng đã được xác minh và chưa được xác minh.Bảng 3. Tổng hợp trữ lượng dầu khí đã xác minh và chưa xác minh.Danh mục    Tổng (tỷ tấn dầu quy đổi-TOE)Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí    3,8 - 4,2Trong đó: - Trữ lượng đã xác minh- Chưa xác minh    1,05 – 1,142,75 – 3,06Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Từ năm 2015-2025 khả năng khai thác được thể hiện thông qua bảng 4 dưới đây.Bảng 4. Quy hoạch khai thác dầu thô đến năm 2025 Năm    2015    2020    2025PA cơ sở (106 tấn)    20,0    20,7    21,7Trong đó nội địa (106 tấn)    17,0    16,3    16,2Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Sự sụt giảm về khai thác dầu thô sẽ phải thay thế và bù đắp vào các nguồn nhiên liệu năng lượng tiềm năng khác nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.-    Về Thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa.Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng chúng ta có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện nay các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và  700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác.-    Về năng lượng mặt trời, với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực nam bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…, một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường, mặt khác cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đén mức tới hạn thì nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn.-    Năng lượng sinh khối, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy chúng ta có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn, đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây tính toán tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, tuy nhiên mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình, trong tương lai đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam.-    Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB) như vậy nếu so với tiềm năng của thủy điện điền thì nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. Chúng ta đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra, thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện nếu không có trợ giá của Nhà nước.-    Năng lượng địa nhiệt, đây là nguồn năng lượng trong lòng đất, chúng ta cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung.-    Các dạng năng lượng khác, ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, từ kinh nghiệm khai thác các nguồn năng lượng khác đã có trên thế giới, ở Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dò hải lưu, băng cháy dưới đáy biển, chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn.II.    Tương quan kinh tế và năng lượng ở Việt Nam.Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030, trong đó đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự bảo đến năm 2030.Về kịch bản tăng trưởng kinh tế  tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư được thể hiện thông qua bảng 5 dưới đây.Bảng 5. Dự báo tăng trưởng GDP giai đoạn đến 2030Lĩnh vực    2011-2015    2016-2020    2021-2030P/A    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    CaoTăng trưởng GDP(%)    7,0    7,5    8,0    7,0    8,0    8,4    7,2    7,8    8,6Nông-lâm-thuỷ sản (%)    2,7    3,0    3,0    2,0    2,2    2,2    2,0    2,2    2,2CN-xây dựng(%)    7,5    8,4    9,0    7,5    8,6    9,3    7,4    8,1    9,1Dịch vụ (%)    8,0    8,2    8,7    8,0    9,0    9,3    8,0    8,6    9,2Nguồn: Nhóm nghiên cứu của Bộ KH&ĐT hỗ trợ lập TSĐ VII. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Như vậy từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông-lâm-thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp-xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuốngs còn 18,2% , sử dụng khí đốt tăng từ 1%lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030.Đối với sử dụng năng lượng dự báo cho các ngành, trên cơ sở tính toán và dự báo theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, kết quả đưa ra được thể hiện thông qua biểu đồ 1 dưới đây.Biểu đồ 1: Các lĩnh vực sử dụng năng lượng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ cho thấy, xét trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030 được các chuyên gia dự báo có một sự tăng đều thông qua biểu đồ 2 dưới đây.Biểu đồ 2. Tương quan kinh tế và NL, từ năm 2005 đến 2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ 2 cho thấy so sánh tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, từ năm 2025 đến năm 2030 khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm.III.Đề xuất giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó đối với ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kính tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản như sau.Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà chúng ta có ưu thế.Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng chúng ta không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, chúng ta nên nhập khẩu, chăng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập.Thứ ba, về lộ trình chúng ta buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy chúng ta sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra,Thứ tư, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo.Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen giống như văn hóa người Nhật. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ.Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả.Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, tuy nhiên chúng ta thực hiện theo định hướng chung của thế giới, chính vì vậy đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo.Kết luận.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030 chúng ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới chúng ta có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng chúng ta có thế mạnh.TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXBCTQG-Hà Nội 2011. 2.Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP). Dự án “tăng cường năng lực lồng ghép phát tiển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. Nghiên cứu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2011-2020. Báo cáo “Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH”. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ. 3.Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 4.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013. 5.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013.PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

6-4-2014

      Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng.

Đánh giá ảnh hưởng một số tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với khu vực ven biển thành phố Đà Nẵng

9-8-2015

Việt Nam có đới bờ biển dài hơn 3.200km với một chuỗi đô thị lớn, tập trung cư dân đông đúc, kinh tế phát triển đa ngành, nhưng rất dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu. Đối với khu vực bờ biển Trung Bộ trong những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan: bão không theo quy luật; mưa trái mùa; triều cường biên độ lớn… xuất hiện ngày càng nhiều về tần suất, càng mạnh về cường độ; có lúc vượt ngưỡng chịu tải của môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư, dẫn đến thảm họa môi trường, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các đô thị ven biển.

Sử dụng ảnh LANDSAT đa thời nghiên cứu diễn biến đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị

29-10-2015

Thành phố Đà Nẵng đang trong tiến trình xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường hướng tới hình ảnh một thành phố “thân thiện với môi trường”. Nhằm xây dựng cơ sở khoa học phục vụ công tác quy hoạch môi trường thành phố, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định sự phát triển và biến động không gian của đô thị Đà Nẵng từ năm 1990 đến năm 2015 sử dụng ảnh vệ tinh LANDSAT đa thời. Bằng phương pháp phân loại có kiểm định dựa vào bản đồ hiện trạng sử dụng đất của thành phố năm 2010, biến động không gian đô thị và các hợp phần của đô thị trong 6 quận nội thành qua thời gian đã được làm rõ.

Từ kinh nghiệm quốc tế đề xuất giải pháp chính sách khuyến khích thiết kế, chế tạo thiết bị chuyên dùng cho hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường

16-12-2024

 Điều tra cơ bản trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ thiết yếu được Chính phủ giao cho Bộ TN&MT, bao trùm các lĩnh vực quan trọng của ngành như đo đạc bản đồ, điều tra tài nguyên đất, nước, khoảng sản...

Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon của hệ sinh thái biển và đất ngập nước

16-12-2024

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (HST) tự nhiên, đặc biệt là HST rừng đã được nhiều tổ chức quốc tế và một số quốc gia triển khai, đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, hiện nay, có rất ít cơ chế, chương trình chi trả cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của HST tự nhiên. Kinh nghiệm xây dựng và triển khai các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for forest environmental services - PFES) là những ví dụ điển hình có thể tham khảo để xây dựng cơ chế, chương trình chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon đối với các HST tự nhiên, đặc biệt là HST biển và HST đất ngập nước (ĐNN) nội địa.

Nỗ lực ứng phó với thời tiết cực đoan ở Timor-Leste

16-12-2024

Timor-Leste, quốc đảo non trẻ ở Đông Nam Á, đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự tàn phá của cuộc khủng hoảng khí hậu. Để hỗ trợ khu vực này giảm thiểu tác động từ thời tiết khắc nghiệt, hàng loạt giải pháp đã được đưa ra với sự kết hợp giữa công nghệ, kiến thức cộng đồng và sự hỗ trợ của Liên hợp quốc.

Chính sách ưu đãi về tài chính trong phát triển khu công nghiệp sinh thái: Bài học kinh nghiệm từ ASEAN và hàm ý cho Việt Nam

17-12-2024

  Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là mô hình hướng tới nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) và không phát thải, với mục tiêu tối ưu hóa sử dụng tài nguyên bằng cách tái chế chất thải từ quy trình sản xuất. Tại Việt Nam, các dự án thí điểm KCNST trong giai đoạn 2015-2023 đã đạt được một số kết quả khả quan nhưng còn đối mặt với những hạn chế về cơ chế tài chính.

Quản lý và bảo vệ môi trường đối với các công viên địa chất: Kinh nghiệm quốc tế và những gợi mở cho Việt Nam

18-12-2024

  Tại Việt Nam, khái niệm công viên địa chất đã được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp lý như Luật Khoáng sản 2018 và Luật Bảo vệ môi trường 2020. Mặc dù có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí cơ bản, việc thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển các CVĐC ở Việt Nam còn gặp nhiều thách thức.

Một số giải pháp thúc đẩy phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải tại Việt Nam

6-1-2025

Quan điểm phát triển KTTH được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng cộng sản Việt Nam “Kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình nhiều quốc gia lựa chọn” và đề ra định hướng trong giai đoạn 2021-2030, Việt Nam “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng coi “khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất” là một trong những giải pháp chiến lược trong 10 năm tới.

Thực trạng phát sinh và giải pháp quản lý chất thải rắn y tế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

6-1-2025

Bài viết đánh giá thực trạng quản lý CTRYT tại Lạng Sơn, nhận diện các khó khăn và hạn chế, đồng thời đề xuất giải pháp dựa trên đặc thù điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của địa phương, nhằm góp phần cải thiện hiệu quả quản lý CTRYT, hướng đến mục tiêu BVMT và phát triển bền vững.

Tăng cường công tác quản lý chất lượng môi trường không khí tại Việt Nam

10-1-2025

Ô nhiễm không khí hiện nay là vấn đề ô nhiễm môi trường chính không chỉ ở Việt Nam, mà cũng là vấn đề môi trường chính của các quốc gia trên thế giới. Tại nhiều quốc gia, từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển, đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí, khu vực đô thị.