ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Khai thác, chế biến khoáng sản cho hôm nay và cho mai sau - vấn đề lựa chọn khôn khéo và đánh đổi qua ví dụ sa khoáng titan ven biển miền Trung

Ngày đăng: 02 | 12 | 2013

Việt Nam nằm ở vị trí giao nhau của 2 vành đai sinh khoáng: vành đai Tây Thái Bình Dương và vành đai Địa Trung Hải, vì vậy tài nguyên khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại và tương đối phong phú. Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.

 

1. Bối cảnh

Việt Nam nằm ở vị trí giao nhau của 2 vành đai sinh khoáng: vành đai Tây Thái Bình Dương và vành đai Địa Trung Hải, vì vậy tài nguyên khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại và tương đối phong phú. Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau. Nhìn chung, tài nguyên khoáng sản nước ta phần lớn có quy mô trung bình và nhỏ, trong đó một số loại khoáng sản có tiềm năng đủ điều kiện để tổ chức khai thác, chế biến quy mô công nghiệp như: bauxit, titan-zircon, đất hiếm, apatit… nhưng cần đánh giá chính xác về trữ lượng; Than, dầu khí với trữ lượng đã biết và một số khoáng sản kim loại có quy mô trung bình và nhỏ như: sắt, đồng, chì, kẽm, mangan, cromit, thiếc, volfram, vàng, bạc… chỉ khai thác vài chục năm nữa sẽ cạn kiệt. Khoáng sản phi kim lọai và vật liệu xây dựng như đá vôi, nguyên liệu xi măng, đá hoa trắng, cát trắng... thì nhiều, có thể đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước, nhưng ít có giá trị xuất khẩu; Một số loại khoáng sản có ít, nhưng có giá trị kinh tế, cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá như: molypden, antimon, kim loại hiếm, đá quý rubi, saphia...

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiều lọai khoáng sản được khai thác, chế biến để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu. Hoạt động khoáng sản từng bước hướng tới gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu lợi nhuận, kinh tế với trách nhiệm bảo vệ môi trường, an toàn lao động, bảo vệ tài nguyên khoáng sản. Ngành khai khoáng đóng góp GDP mỗi năm khoảng 10% - 11%, thu ngân sách nhà nước khoảng 25%,  về cơ bản ngành này đã đáp ứng kịp thời nguyên liệu (than đá, thiếc, kẽm, sắt, đồng, apatit v.v.) cho các ngành kinh tế sử dụng nguyên liệu khoáng (nhiệt điện, ximăng, hóa chất, luyện kim...). Công nghiệp khai khoáng đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [2].

Tuy nhiên, hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản còn bộc lộ nhiều bất cập: Do chú trọng vào kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý đến bảo vệ môi trường nên tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi gây suy thoái môi trường và làm mất cân bằng sinh thái đang diễn ra ở nhiều nơi; Gần 10 năm thực hiện Quyết định 64/2003/QĐ-TTg, nhưng đến nay vẫn còn nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (vùng than Quảng Ninh); Khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản chưa hợp lý, làm tổn thất, lãng phí tài nguyên quốc gia và gây bức xúc, áp lực lớn cho xã hội ở khu vực có hoạt động khoáng sản; Lập quy hoạch, kế hoạch, quyết định đầu tư dự án chưa tính toán đến các chi phí, lợi ích về mặt xã hội và môi trường; Việc phân cấp cho các địa phương trong cấp phép, quản lý khai thác, chế biến khoáng sản, bảo vệ môi trường đã được tiến hành, nhưng chưa thanh tra, kiểm tra kịp thời để xử lý các vi phạm pháp luật; Tài nguyên khoáng sản là sở hữu toàn dân, nhưng lợi ích từ hoạt động khoáng sản hiện tại chủ yếu thuộc về các công ty, cá nhân khai thác, chế biến khoáng sản. Lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội chưa tương xứng với giá trị tài nguyên; Tài nguyên của đất nước bị sử dụng lãng phí, trong khi thu ngân sách được ít, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư phải gánh chịu hậu quả nặng nề về kinh tế, xã hội và môi trường, cần được khắc phục [2]. Trong bài viết này tác giả tổng hợp, phân tích về những vấn đề nêu trên thông qua nghiên cứu mẫu về khai thác, chế biến khoáng sản Titan trong cồn cát ven biển miền Trung Việt Nam.

2. Thiên nhiên ban tặng

Titan kim loại và hợp kim Titan là một trong những chất có triển vọng nhất thời đại ngày nay. Hợp kim Ti bền gấp 3 lần so với hợp kim Al, 5 lần so với hợp kim Mg; nhẹ bằng nửa so với thép; nhiệt độ nóng chảy cao gấp 3 lần Al với Mg. Chính vì những tính chất ưu việt đó mà Ti được coi là kim loại của thế kỷ 21, là nguyên liệu không thể thiếu trong các ngành công nghiệp quốc phòng, hàng không, y tế và thể thao. Các ngành công nghiệp ở nước ta hiện nay ngày càng cần nhiều sản phẩm của Ti, nhưng hầu hết đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong khi ta có tài nguyên quặng Titan khá nhiều và có khả năng khai thác, tuyển luyện để sử dụng.

Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200km, trong đó ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận có dải cồn cát hình thành hàng chục ngàn năm trong giai đoạn Holocen thời kỳ Đệ Tứ. Trong cồn cát này tích tụ nhiều loại khoáng sản, nhưng quan trọng và có giá trị nhất là quặng Titan. Quặng Titan sa khoáng ven biển là kiểu quặng có giá trị nhất hiện nay ở nước ta, có thể khai thác với quy mô công nghiệp. Trong loại quặng này, cát thạch anh (SiO2) chiếm tỷ lệ 95-99%, còn lại là các khoáng vật nặng (KVN), chủ yếu gồm: ilmenit (FeTiO3), zircon (ZrSiO4), rutin (TiO2), leucoxen, anataz (TiO2), monazit (Ce, La, Th) [PO4, SiO4]. Có thể gặp các khoáng vật khác như xenotim, manhetit…, nhưng với hàm lượng rất thấp. Sau khi tuyển thô, thường chỉ có ilmenit, zircon, rutil và monazit được thu hồi công nghiệp, trong đó Monazit, Xenotim, Zircon là những khoáng vật có chứa các nguyên tố phóng xạ (U, Th) [5].

Trữ lượng quặng Titan quy ra TiO2 trên thế giới khoảng 1,4 tỷ tấn. Trữ lượng quặng Titan của Việt Nam tính đến cấp C2 khoảng 14,03 triệu tấn, chiếm khoảng 0,5% trữ lượng của thế giới. Tổng trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng Titan năm 2004 là 34,57 triệu tấn, trong đó chủ yếu là quặng sa khoáng, 30,17 triệu tấn. Sa khoáng Titan phân bố rộng rãi dọc theo chiều dài miền Trung, nhưng tập trung nhiều ở Thừa Thiên Huế, Bình Định và Bình Thuận. Đặc điểm thành tạo của các sa khoáng Titan tích tụ trong dải cồn cát ven biển là có nguồn gốc biển và gió. Tổng trữ lượng đã xác định năm 2004 của các mỏ sa khoáng Titan ven biển miền Trung đạt tới 8,154 triệu tấn, phân bố ở các tỉnh như sau: Thừa Thiên Huế 4.709.451 tấn, chiếm 57,8%; Bình Định 1.596.763 tấn, chiếm 19,6%; Bình Thuận 967.585 tấn, chiếm 11,9%; Quảng Trị 587.000 tấn, chiếm 7,2%; Khánh Hòa 128.300 tấn, chiếm 1,6%; Phú Yên 110.590 tấn, chiếm 1,4% và Quảng Nam 54.047tấn, chiếm 0,67%. Tổng trữ lượng các khoáng vật đi kèm trong tất cả các mỏ gồm: zircon 1.305.543 tấn, rutil 24.526 tấn và monazit 9.176 tấn. Ngoài ra, kết quả điều tra gần đây (2010) cho thấy sa khoáng Titan tập trung nhiều trong các tầng cát trắng, cát xám, cát đỏ, nhưng chủ yếu là trong tầng cát đỏ ở Bình Thuận – Ninh Thuận với tiềm năng tài nguyên dự báo khoảng 557 triệu tấn với hàm lượng Ilmenit trong các thân quặng thay đổi từ vài kg/m3 đến 195 kg/m3 [3,9].

 

Tiềm năng sa khoáng Titan lớn vừa là lợi thế, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho các tỉnh miền Trung nhiều thách thức và rủi ro môi trường. Trên thực tế, việc phát triển ồ ạt các hoạt động kinh tế: du lịch, nuôi trồng thủy sản, khai thác sa khoáng Titan và các dự án phát triển kinh tế khác trong thời gian qua đã phá hủy những vùng cồn cát rộng lớn, có thể đẩy miền Trung rơi vào “Cái bẫy tài nguyên” mà nhiều quốc gia giàu tài nguyên ở Châu Phi đã mắc phải. Trong phạm vi bài viết này sẽ phân tích những hạn chế và bất cập trong công tác quản lý nhằm đề xuất những giải pháp hợp lý, phát huy tiềm năng sa khoáng Titan của vùng, thúc đẩy ngành khai khoáng phát triển bền vững, phòng tránh nguy cơ về “Cái bẫy tài nguyên”.

3. Khai thác và chế biến quặng Titan trong cồn cát miền Trung

Khởi đầu hoạt động khai thác Titan: Từ  năm  1993, lần  đầu  tiên ở ven  biển  miền Trung Việt Nam, Công ty Austin - liên doanh giữa Úc và Việt Nam bắt đầu khai thác quặng Titan trên địa bàn Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong phân chia sản phẩm và lợi nhuận đã làm cho Công ty này phải giải tán vào năm 1995. Đến năm 1997 Công ty khai thác chế biến quặng Titan Hà Tĩnh ra đời. Địa bàn hoạt động của họ chủ yếu là ở vùng Cẩm Xuyên và Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh.

Cũng trong thời gian đó, ở Bình Định, công ty BIMAL là liên doanh Việt Nam- Malaysia tổ chức khai thác quặng Titan ở mỏ Đề Gi thuộc huyện Phù Cát và chế biến tại chỗ rồi xuất khẩu; Công ty Khoáng sản Bình Định thì tiến hành khai thác quặng Titan tại mỏ Cát Hải, huyện Phù Cát và đưa về chế biến tại thành phố Quy Nhơn. Tiếp theo Hà Tĩnh và Bình Định, từ những năm 2000 đến nay, hoạt động khai thác quặng Titan phát triển rộng khắp trên dải cồn cát ven biển miền Trung từ vùng quặng Hải Thuỷ, tỉnh Quảng Bình; Phú Diên, tỉnh Thừa Thiên Huế; đến vùng Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận và nhiều nơi khác [5].

* Phương thức khai thác quặng Titan:Trong thời gian đầu khai thác quặng Titan ở ven biển Việt Nam, phương thức khai thác là thủ côngnhư ở Hà Tĩnh, hiệu suất kém, độ sâu khai thác nông, chỉ lấy phần quặng nằm gần bề mặt cồn cát. Với công nghệ lạc hậu, người ta chỉ tuyển thô, lấy khoáng vật nặng là ilmenit đạt tỷ lệ khoảng 52% TiO2 rồi đem xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô, ngoại trừ công ty liên doanh BIMAL ở Bình Định có phân xưởng tuyển tinh để lấy ilmenit sạch, zircon, rồi xuất sang Malaysia. Trong những năm tiếp theo, nhờ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, tại nhiều nơi đã tận thu được những khoáng vât nặng có giá trị cao hơn như zircon, monazit. Trong thời gian gần đây trên địa bàn các tỉnh Hà Tĩnh, Bình Định và một số nơi khác đã tiến hành chế biến quặng Titan ở mức sâu hơn. Các công ty khai thác Titan chẳng những đã thu hồi được zircon, mà còn nghiền zircon thành bột mịn để xuất khẩu. Khoáng nặng ilmenit được tuyển sạch hơn, đạt đến mức hàm lượng 55-57% TiO2, sau đó dùng phương pháp thiêu kết để tạo ra một sản phẩm mới có tên gọi là “xỉ Titan ”, đạt tỷ lệ hàm lượng 92 - 95% TiO2.

    Dần về sau các tỉnh miền Trung chuyển sang khai thác quặng Titan bằng cơ giới, độ sâu khai thác lớn, lấy cả lớp quặng dưới sâu như ở Thừa Thiên Huế, Bình Định, Bình Thuận. Kỹ thuật khai thác quặng Titan trên cồn cát về cơ bản tương tự nhau: Dùng sức nước để phá vỡ các lớp cát chứa quặng, dùng phương tiện cơ giới đào xúc, bơm hút bùn cát lên để tuyển thô bằng trọng lực nhờ sức nước thông qua vít xoắn, vận chuyển về xưởng để tuyển tinh, tách riêng các KVN, sau đó tiếp tục chế biến sâu: hoàn nguyên ilmenit, luyện xỉ titan, chế biến rutil nhân tạo, sản xuất bột màu pigment,… tạo  ra sản phẩm có giá trị và hiệu quả kinh tế cao hơn, rồi xuất sản phẩm ra thị trường thế giới và trong nước.

    Phụ thuộc vào đặc điểm địa chất của mỏ sa khoáng Titan và thiết bị khai thác, có sự khác biệt giữa các công ty khai thác Titan, nhưng về đại thể có thể chia ra 3 kiểu công nghệ khai thác: (i) Phá bỏ, thu dọn thảm thực vật -> Gạt ủi, dồn đống lớp cát chứa quặng gần mặt đất -> Bốc xúc đưa lên vít xoắn để tuyển thô -> Thu hồi sản phẩm sau tuyển à Đổ cát thải ra bên cạnh. Điển hình cho kiểu khai thác này là ở Hà Tĩnh. (ii)  Phá bỏ, thu dọn thảm thực vật -> Đào hố sâu đến lớp cát quặng à Bơm hút cát chứa quặng đưa lên mặt đất -> Bốc xúc đưa lên vít xoắn để tuyển thô -> Thu hồi sản phẩm sau tuyển à Đổ cát thải ra bên cạnh. Thường gặp kiểu khai thác này ở Thừa Thiên Huế, Quảng Bình. (iii) Phá bỏ, thu dọn thảm thực vật -> Mở moong khai thác sâu đến lớp cát quặng, sâu hơn mực nước ngầm trong cồn cát vài ba mét -> Làm bè bằng phao -> Lắp cụm vít xoắn trên bè nổi -> Dùng bơm cao áp hút bùn cát quặng phía trước đưa lên vít xoắn để tuyển thô ->  Bơm nước chứa cát thải ra phía sau -> Đồng thời bơm quặng Titan sau tuyển đến nơi quy định, bốc xúc sản phẩm, vận chuyển về xí nghiệp tuyển tinh và chế biến sâu hơn. Điển hình cho kiểu khai thác này là tại các công ty khai thác Titan ở Bình Định [5,6].

      * Phương thức chế biến quặng Titan: Trên thế giới ngày nay quặng titan được chế biến ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế kỹ thuật của mỗi nước. Quặng sa khoáng titan có hàm lượng 2–5% TiO2 thường được làm giàu bằng phương pháp tuyển khoáng tới tinh quặng 45–52% TiO2. Quặng tinh titan tiếp tục được chế biến theo các công nghệ: (i) Làm giàu luyện kim; (ii) Chế biến sâu; (iii) Chế biến sâu công nghệ cao.

        1) Làm giàu luyện kim: Làm giàu luyện kim bằng công nghệ luyện xỉ titan để nâng hàm lượng TiO2 đạt đến 95%; bằng công nghệ sản xuất rutil nhân tạo để nâng hàm lượng TiO2 đạt đến 92 - 98%. Xỉ titan là nguyên liệu tốt cho sản xuất pigment. Công nghệ sản xuất xỉ titan không khắt khe nguyên liệu đầu vào, rất ít phế thải, thích hợp nhất đối với nơi có nguồn điện giá rẻ. Sản xuất rutil nhân tạo là quá trình tách sắt và các tạp chất để làm giàu quặng ilmenit. Thường áp dụng công nghệ nung luyện theo các quy trình: Quy trình Becher; Quy trình Benelite; Quy trình ERMS.

        2) Công nghệ chế biến sâu sản xuất pigment titan: Công nghệ sản xuất pigment TiO2 phát triển rất nhanh với các phương pháp sulphat năm 1916, phương pháp clorua năm 1958, công nghệ Altair. Gần 95% titan được sử dụng ở dạng pigment TiO2.

        3) Công nghệ cao chế biến Ti kim loại: Công nghệ cao chế biến sâu này được đưa vào sản xuất năm 1948 theo quy trình Kroll: Clorua hoá nguyên liệu titan để thu nhận TiCl4 à Hoàn nguyên TiCl4 bằng Mg để nhận được titan xốp  à Nấu chảy titan xốp nhận được titan thỏi. Khoảng 5% quặng titan dùng để sản xuất titan kim loại. Titan kim loại chủ yếu sử dụng ở những nước phát triển trong công nghiệp tên lửa, hàng không, vũ trụ... với khối lượng tiêu thụ còn chưa nhiều. Sản xuất titan kèm theo phải sản xuất Mg. Công nghệ sản xuất titan kim loại đòi hỏi thiết bị hiện đại công nghệ cao, chi phí điện năng rất lớn: 2,5 MegaWh/tấn titan, vì vậy chỉ thích hợp với các nước phát triển cao. Sản xuất titan kim loại thực tế phải là Liên hợp sản xuất Ti–Mg.

        Theo quy định của Thủ tướng chính phủ, cấp phép khai thác sa khoáng Titan phải đồng bộ với xây dựng nhà máy chế biến sâu. Thực tế lại khác, ví dụ ở Bình Định cùng lúc có 4 cơ sở chế biến Titan dẫn đến thừa công suất, còn ở Bình Thuận có 16 đơn vị khai thác Titan đăng ký xây dựng nhà máy chế biến sâu, nhưng đến nay mới chỉ có một nhà máy nghiền zircon mịn đi vào hoạt động, thể hiện sự thiếu đồng bộ trong khai thác và chế biến, dẫn đến hiện tượng quặng khai thác qua tuyển thô, tuyển tinh rồi đưa đi xuất khẩu, hoặc bán cho các tỉnh khác.

        4. Tác động của khai thác, chế biến quặng Titan đến môi trường

        Bất kỳ hoạt động phát triển nào cũng có tác động đến môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội. Khai thác và chế biến quặng sa khoáng Titan trong cồn cát ven biển cũng không phải là ngoại lệ, đã và đang để lại nhiều tác động bất lợi đến môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội, cảnh quan ven biển, hệ sinh thái nông nghiệp, làm suy giảm các tài nguyên khác và gây bức xúc trong cộng đồng [5,6].

        1) Sự thay đổi địa hình cồn cát: Trong quá trình khai thác sa khoáng Titan, bề mặt địa hình cồn cát và trật tự địa tầng của các lớp cát hoàn toàn bị xáo trộn và thay đổi hẳn so với ban đầu. Trên bề mặt địa hình ổn định đã hình thành những hố tròn, trũng, sâu 5 - 10m, hoặc 20m, đồng thời xuất hiện những đụn cát mới có độ cao khoảng 6 - 10m so với mặt bằng xung quanh, cấu thành từ những vật liệu cát tơi xốp, luôn di động do gió.

        2) Thảm thực vật và rừng phòng hộ bị tàn phá: Để khai thác Titan phải phá bỏ hệ thống rừng phòng hộ và thảm thực vật ở bên trên, nhưng hoàn phục lại không dễ dàng vì cát hoàn thổ thiếu dinh dưỡng, thiếu nước. Khi mất các hệ thống rừng phòng hộ này, người dân phải đối diện trực tiếp với các trận cát bay, cát chảy gây ô nhiễm môi trường và xâm lấn đất sản xuất, gây nhiều bức xúc cho cộng đồng dân cư.

        3) Hoang mạc hóa có điều kiện phát triển: Theo quan niệm của tổ chức Khí tượng thế giới (1994), hoang mạc hóa biểu thị sự tăng cường khô hạn, thiếu ẩm, tích đọng muối trong đất, giảm độ phì của đất, giảm độ che phủ thực vật, thay đổi giống loài và mở rộng các bãi cát, hoặc sự xâm lấn của các cồn cát di động. Với quan niệm đó thì có thể xếp hoang mạc ở dải cồn cát miền Trung vào loại hoang mạc ven biển, nóng, nửa cây bụi. Do tác động của con người ngày càng mạnh nên độ che phủ của thảm cây cỏ chịu hạn trên cồn cát ngày càng giảm đi rõ rệt và quá trình hoang mạc hóa phát triển là nguy cơ hiện hữu và trở thành hiểm họa. Đây thực sự là vấn đề bức xúc đối với cộng đồng ven biển [5,6].

        4) Nguy cơ xói lở bờ biển: Hoạt động khai thác Titan có nơi chỉ cách mép nước biển khoảng 80 - 100m, do vậy nguy cơ xói lở bờ biển là rất lớn, điều đó có thể thành hiện thực khi có bão lớn, triều cường, hoặc mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu toàn cầu. Tại các khu vực khai thác Titan đã xuất hiện các hiện tượng địa chất động lực ven biển như biến dạng đường bờ biển, sạt lở bờ moong, cát bay, cát chảy…

        5) Suy giảm nguồn nước ngầm: Nước mưa là nguồn cấp nước gần như duy nhất cho cồn cát, do vậy lượng nước ngầm trong cồn cát là hữu hạn, nhưng đây lại là nguồn cấp nước chủ yếu cho cư dân sống ở vùng cát và canh tác nông nghiệp ở ven rìa phía Tây cồn cát. Hoạt động khai thác, tuyển rửa quặng Titan sử dụng nhiều nước, khả năng mất nước do bốc hơi từ các khai trường rất lớn, vì vậy mực nước ngầm trong cồn cát bị hạ thấp, đặc biệt vào mùa khô, ảnh hưởng trực tiếp đến các hộ dùng nước của cồn cát. Đã có lúc một công ty khai thác quặng Titan ở sát bờ biển lén lắp đặt các ống hút sử dụng nước biển để tuyển quặng dẫn đến nguy cơ gây nhiễm mặn nguồn nước ngầm trong cồn cát.

        6) Phát tán các chất phóng xạ: Quá trình khai thác, vận chuyển, chế biến quặng Titan làm phát tán các chất phóng xạ, rất có hại đến sức khỏe cộng đồng. Kết quả đo xạ tại khu vực khai thác và chế biến quặng Titan ở Bình Định và Bình Thuận cho thấy cường độ phóng xạ ở đống quặng tuyển ướt khá cao, đặc biệt trong xưởng tuyển tinh, các sản phẩm sau tuyển tinh, đống cát thải ra môi trường sau tuyển quặng tinh đều rất cao, vượt ngưỡng cho phép so với tiêu chuẩn an toàn phóng xạ, (tại Bình Thuận vượt 6 – 15 lần, tại Bình Định vượt 4 - 70 lần; nơi để tinh quặng Monazit vượt 100 lần), đặc biệt liều chiếu trong gây nguy cơ ung thư phổi cho người bị nhiễm xạ [1,6].

        7) Hoàn thổ phục hồi môi trường mang tính đối phó: Căn cứ theo Luật khoáng sản và giấy phép khai thác Titan, thì sau thời gian khai thác mỏ phải tiến hành hoàn thổ, phục hồi môi trường, trả lại thảm thực vật. Công việc này đòi hỏi đầu tư nhiều kinh phí và công sức, nên các công ty khai thác Titan thường thực hiện một cách sơ sài, mang tính đối phó. Một số công ty khai thác Titan đã san ủi mặt bằng, trồng lại rừng phi lao, nhưng nhìn chung diện tích cồn cát sau khai thác Titan còn để trống trọc chiếm phần lớn. Đó là nguy cơ dẫn đến hoang mạc hoá, hạ thấp mực nước ngầm trong cồn cát ven biển [5,6].

        8) Mâu thuẫn xã hội: Mâu thuẫn xã hội nảy sinh do khai thác Titan trong cồn cát là tất yếu, cũng là thực tế, vì sự chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan chưa được minh bạch và công bằng. Vì vậy, đôi khi người dân vùng có khai thác Titan đã tổ chức biểu tình, ngăn cản hoạt động khai thác, thậm chí kéo nhau đập phá thiết bị của công ty khai thác Titan như đã từng xảy ra ở Bình Định. Tại Bình Thuận cũng vậy, khai thác Titan gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, tác động xấu đến môi trường, các vụ khiếu nại, khiếu kiện thường xuyên xảy ra.

        5. Vấn đề bức xúc trong khai thác và chế biến quặng Titan

          * Kỳ vọng và lo lắng khi khai thác quặng Titan trong cồn cát đỏ

            Theo kết quả đề án “Điều tra, đánh giá tiềm năng sa khoáng Ti-Zr trong tầng cát đỏ vùng Ninh Thuận, Bình Thuận và bắc Bà Rịa- Vũng Tàu ” do Bộ TN&MT tiến hành 2009-2010: Tài nguyên dự tính sa khoáng Ti-Zr cấp 333 là 347,77 triệu tấn. Tài nguyên dự báo sa khoáng Ti-Zr cấp 334a là 210,17 triệu tấn. Tổng tài nguyên Ti-Zr cấp 333+334a là 557,94 triệu tấn, tức là gấp 2,8 lần so với mục tiêu đề ra. Kết quả này thực kỳ diệu, thật đáng mừng vì nó mở ra một triển vọng làm giàu cho đất nước nói chung và cho các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận nói riêng.

            Tuy nhiên, căn cứ vào những số liệu trong báo cáo đề án [4,10], thì có cơ sở để lo lắng rằng khối lượng tài nguyên dự báo đó không phù hợp thực tế khách quan bởi lẽ: (i) Hàm lượng biên tổng khoáng vật nặng có ích dùng để tính trữ lượng tài nguyên là 0,3% (tương đương 9kg/m3 là rất thấp); (ii) Hàm lượng trung bình tổng khoáng vật nặng có ích trong các khối địa chất tính trữ lượng là 0,45% (tương đương 13kg/m3, chứng tỏ đó là quặng nghèo). Cần nhớ rằng, hàm lượng trung bình của riêng nguyên tố Ti trong vỏ Trái đất đã là 0,45%); (iii) Hàm lượng trung bình tổng khoáng vật nặng có ích trong từng thân quặng dao động từ thấp nhất 0,45% đến cao nhất 0,81% (tương đương 13- 24kg/m3 chứng tỏ không có quặng giàu); (iv) Chiều dày lớp kẹp tối đa tham gia tính tài nguyên là 2,5m, chứng tỏ khối lượng cát không quặng chiếm tỷ lệ cao trong thể tích của khối địa chất tính tài nguyên; (v) Chiều dày thân quặng trong tầng cát đỏ dao động 30-200m, cho thấy quặng ở đây phân bố rất sâu, lại nằm ven bờ biển, nên khi khai thác sẽ gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ mỏ và giá thành sản phẩm quặng sẽ không có tính cạnh tranh. Vì vậy, ở đây cần thăm dò đánh giá trữ lượng chính xác hơn, cần tính toán chi phí-lợi ích mở rộng, hiệu quả kinh tế, hậu quả môi trường, nhất là quá trình sa mạc hóa trong điều kiện khí hậu khô nóng của vùng và cuối cùng là lựa chọn sự đánh đổi giữa khai thác Titan và phát triển các ngành kinh tế khác [6].

              * Không tương thích giữa yêu cầu chế biến sâu quặng Titan và thuế xuất khẩu

                Quặng Titan chế biến càng sâu, thì giá trị càng cao, nhất là các đơn khoáng. Giá thương mại tại thị trường Luân Đôn đối với sản phẩm Titan: Inmenit FeTiO3 ( ≥ 51,5%TiO2) là  120 USD/tấn năm 2010; Rutin TiO2( 88 – 90%TiO2) là 300 USD/tấn, năm 2007; Zircon ( ≥ 65%ZrO2) là 1000 USD/tấn vào năm 2010. Sản phẩm chế biến sâu thì giá xuất khẩu càng cao. Inmenit 51,5%TiO2 giá xuất khẩu chỉ là 120 USD/tấn; chế biến xỉ Titan thì giá sản phẩm tăng khoảng 2,5 lần; sản xuất được Pigment thì tăng khoảng 10 lần; sản xuất được Titan kim loại thì gấp 80 lần.

                Như vậy, khai thác và xuất khẩu quặng thô, thì giá bán quặng rất thấp và nguồn thu của nhà nước không tương xứng với giá trị của tài nguyên. Theo Luật khoáng sản, Nhà nước chủ trương hạn chế xuất khẩu khoáng sản dạng thô, khuyến khích chế biến sâu, nhưng trên thực tế lại có sự mâu thuẫn với khung thuế xuất: Quặng tinh xuất khẩu chịu mức thuế (20%), còn sản phẩm qua chế biến sâu thì chịu thuế xuất khẩu lại là 18%. Kết quả tính toán của Sở Công thương tỉnh Bình Định 10/2009 cho thấy với mức thuế 18%, xuất khẩu sản phẩm qua chế biến sâu sẽ bị lỗ; Chỉ với mức thuế xuất khẩu < 5% thì mới có lãi. Vì vậy các doanh nghiệp ngại chế biến sâu do phải đầu tư lớn, mà không thu được lợi. Đó chính là sự chồng chéo trong các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động khoáng sản, cần được khắc phục.

                  * Nguy cơ về “Lời nguyền tài nguyên hay Cái bẫy tài nguyên”

                    Là nước có tiềm năng khoáng sản đa dạng, nhưng với hiện trạng khai thác và chế biến khoáng sản, bao gồm cả quặng Titan trong thời gian qua có thể đẩy Việt Nam rơi vào “Lời nguyền tài nguyên hay Cái bẫy tài nguyên” mà nhiều quốc gia giàu tài nguyên ở Châu Phi đã mắc phải. Cái bẫy tài nguyên (CBTN) là hiện tượng các nền kinh tế giàu tài nguyên thiên nhiên có xu hướng phát triển chậm hơn những nền kinh tế không có các tài nguyên thiên nhiên đáng kể. Trên thế giới có nhiều quốc gia đã rơi vào CBTN như Nigeria, Angola, Hà Lan… là do mất cân đối trong cơ cấu kinh tế, do nền quản trị yếu kém và lạc hậu về khoa học công nghệ [4]. Ngược lại, có một số quốc gia đã tránh được CBTN bằng những chính sách, chế tài hợp lý và nền quản trị chặt chẽ, điển hình ở khu vực Đông Nam Á là Indonesia. Liệu Việt Nam sẽ rơi vào CBTN như Nigeria, hay tránh được CBTN như Indonesia ? Điều đó phụ thuộc rất lớn vào vấn đề quản lý. Một nền quản lý chặt chẽ, rõ ràng, minh bạch trong khai thác, chế biến khoáng sản là một trong những mắt xích quan trọng nhằm giúp Việt Nam tránh được CBTN [4].

                    6. Hướng tới bền vững trong khai thác và chế biến khoáng sản

                      * Để dành tài nguyên cho các thế hệ mai sau

                        Vùng ven biển miền Trung là khu vực tranh chấp trong sử dụng tài nguyên và môi trường, nhiều hoạt động phát triển được tiến hành đồng thời trên cùng một không gian lãnh thổ. Vì vậy cần so sánh hiệu quả kinh tế và môi trường của các phương án quy hoạch, để lựa chọn quy hoạch ngành kinh tế ưu tiên phát triển, đem lại hiệu quả cao trong một khoảng thời gian nhất định. Không nhất thiết cứ phải ngay hôm nay khai thác hết quặng Titan trong dải cồn cát ven biển. Đối với khai thác quặng Titan ven biển phải là sự lựa chọn khôn ngoan, thực chất đây là một sự đánh đổi chọn lọc giữa các ngành kinh tế như phát triển du lịch thể thao, giải trí nghỉ dưỡng, nuôi thủy sản, kinh tế biển v.v.. và khai thác quặng Titan, sự đánh đổi giữa kinh tế hôm nay và môi trường trong tương lai.

                        Mặt khác, nhu cầu sử dụng Titan ở nước ta chưa thực sự lớn, thân quặng Titan có nơi (Bình Thuận) đến độ sâu gần 200m, nên việc khai thác rất khó khăn, gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường, sinh thái, an sinh xã hội đối với cộng đồng cư dân ven biển. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch, làm kinh tế biển đem lại hiệu quả kinh tế cao, từ lâu đã trở thành thế mạnh của vùng ven biển. Để dành lại nguồn tài nguyên quặng Titan trong cồn cát ven biển là trách nhiệm của thế hệ đương thời cho các thế hệ mai sau. Khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo, càng để lâu trong lòng đất càng có giá trị. Đó cũng là kế sách để lưu giữ tài nguyên cho phát triển bền vững đất nước. Lưu ý rằng ngày nay một số quốc gia không nghèo tài nguyên khoáng sản như Mỹ, Trung Quốc, nhưng họ tích cực thu gom khoáng sản của thế giới về “lưu kho” để sử dụng khi cần trong tương lai [6,7].

                        *Tham gia sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng

                        Minh bạch là chủ trương quan trọng ở Việt Nam, liên tục được nhắc đến trong văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, các văn bản pháp luật Việt Nam và trong các cam kết quốc tế. Để tránh nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, lãng phí tài nguyên trong khai thác, chế biến khoáng sản cần có quy chế bắt buộc minh bạch về tài nguyên khoáng sản. Hiện nay, trên thế giới có nhiều sáng kiến cũng như cách tiếp cận quản lý tài nguyên khoáng sản bền vững ở cấp độ toàn cầu như: Sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai khoáng (EITI - Extractive Industries Transparency Initiative), Chiến dịch Công bố các khoản chi trả (PWYP)... Trong những năm qua, EITI đã được giới thiệu trong các cuộc hội thảo về khoáng sản ở Việt Nam.

                        EITI là một liên minh giữa Chính phủ, công ty và các tổ chức xã hội dân sự với mục tiêu nổ lực để tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích của tất cả mọi người. EITI hướng đến tăng cường khả năng quản trị thông qua nâng cao sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong ngành công nghiệp khai khoáng. EITI được Thủ tướng Anh Tony Blair giới thiệu và đề xuất tại hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững ở Johannesburg tháng 10/2002. Đến nay đã có 31 nước tham gia thực thi EITI, trong các nước ASEAN có Indonesia; Đã có 41 công ty dầu mỏ, khai khoáng đa quốc gia cùng 80 tổ chức đầu tư quốc tế tham gia EITI. Cùng với đó là hơn 100 tổ chức xã hội dân sự và các mạng lưới cũng đã gia nhập sáng kiến này [4].

                        Lợi ích từ việc tham gia sáng kiến EITI: (i) Đối với Nhà nước là tăng nguồn thu cho ngân sách, giảm thiểu thất thoát tài chính; Giảm thiểu xung đột giữa các bên và tạo dựng lòng tin của dân chúng, của nhà đầu tư, từ đó thu hút thêm nguồn vốn đầu tư; Tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần; Tăng chỉ số tín nhiệm quốc gia về minh bạch; Phòng và chống tham nhũng hiệu quả hơn. (ii) Đối với doanh nghiệp: Hạn chế các khoản chi không chính thức, dẫn đến nâng cao lợi nhuận; Giảm thiểu xung đột với cộng đồng, địa phương; Nâng cao vị thế, uy tín của doanh nghiệp. (iii) Đối với cộng đồng đó là có thêm thông tin về hoạt động của doanh nghiệp và chính phủ; Tạo điều kiện tăng cường sự tham gia, giám sát của cộng đồng trong hoạt động khoáng sản.

                        Dễ nhận thấy rằng hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản ở Việt Nam chưa minh bạch, thể hiện trong việc cấp giấy phép, khoanh diện tích mỏ, thiết kế mỏ, mức độ chế biến sâu, khai báo sản lượng, nộp thuế và phí v.v.. Việc tham gia EITI có vai trò quan trọng, giúp cho ngành khai khoáng Việt Nam tránh được những nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, lãng phí tài nguyên trong khai thác, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, góp phần thúc đẩy ngành khai khoáng Việt Nam nói chung và khai thác Titan nói riêng phát triển bền vững.


                        Ths. Đặng Trung Tú
                        Ban Tổng hợp - Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường


                        Tài liệu tham khảo

                        1. Nguyễn Ngọc Anh, (2008). Trường phóng xạ trên cồn cát ven biển tỉnh Bình Định và nguy cơ ô nhiễm phóng xạ do khai thác, chế biến khoáng sản Inmenit. Hội Địa Hóa Việt Nam.

                        2. Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường. Hội thảo Khoa học. Quảng Ninh, 2012.

                        3. Đề án “Điều tra, đánh giá tiềm năng sa khoáng Ti-Zr trong tầng cát đỏ vùng Ninh Thuận, Bình Thuận và bắc Bà Rịa- Vũng Tàu ”. Bộ TN&MT, 2009.

                        4. Sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai thác khoáng sản EITI. Viện Tư vấn phát triển CODE, 2011.

                        9.  Tóm tắt báo cáo Điều tra, đánh giá tiềm năng sa khoáng Ti-Zr trong tầng cát đỏ vùng Ninh Thuận, Bình Thuận và bắc Bà Rịa- Vũng Tàu. Cục Địa chất & Khoáng sản Việt Nam, 2010.

                        5. Đặng Trung Thuận và nnk, (2008). Xây dựng mô hình trình diễn công nghệ thân thiện môi trường để khai thác quặng Inmenit (Ti) trong cồn cát ven biển huyện Phù Mỹ. Báo cáo Tổng hợp dự án.

                        6. Đặng Trung Thuận và nnk (2011). Khai thác, chế biến quặng Titan trong cồn cát ven biển và vấn đề môi trường liên quan. Hội thảo khoa học. Bình Thuận.

                        7. Đặng Trung Thuận và nnk (2012). Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản trong bối cảnh PTBV ở Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật.

                        8. Nguyễn Văn Thuấn, Trần Văn Thảo (2008), “Tiềm năng sa khoáng Titan – Zircon công nghiệp trong tầng cát đỏ thuộc hệ tầng Phan Thiết ở dải ven biển Nam Trung Bộ”, Tạp chí Địa chất (308), Tr. 18-24.

                        NỘI DUNG KHÁC

                        Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

                        14-1-2014

                        Chiến lược tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012, để thực hiện chiến lược đó, một trong các nội dung quan trọng là huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng xanh đã xác định. Tuy nhiên huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với những yêu cầu của Chiến lược đã đề ra.

                        Nguồn tài nguyên năng lượng Việt nam và khả năng đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế.

                        1-4-2014

                        Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng. Việt  Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu-năng lượng đa dạng đầy đủ các chủng loại như than, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới mà chúng ta còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường.I.    Khái quát về nguồn nhiên liệu, năng lượng và khả năng khai thác của Viêt Nam.-    Nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta, trước hết phải kể đến đó là than, khai thác và sử dụng than ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, từ khi người Pháp đến nước ta cách đấy hàng trăm năm, mức độ khai thác, sử dụng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xét về trữ lượng, tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Vê trữ lượng và chủng loại than phân theo các cấp và của Việt Nam thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây.Bảng 1. Trữ lượng than phân theo các cấp và các chủng loại thanHạng mục    Trữ l¬ượng xác minh (TK-TD)    Phân chia trữ lượng đã xác minh theo cấp (1000 tấn) A+B+C    A+B    C 1    C 2    PTổng cộng      6 140 683    5 629 252    356 789    2 264 480    3 007 983    511 4311    Bể than QN     4 121 745    4121745    301335    1508643    2311767    0 Vùng nội địa-TKV     165 110    165110    55454    91901    17755    0 Các mỏ than địa phương      37 434    18478    0    10238    8240    18956 Vùng than ĐBSH     1 580 956    1088481    0    524871    563610    492475 Tổng Antraxit+ khác     5 905 245     5 393 814     356 789     2 135 653     2 901 372     511 4312    Than bùn     235 438    235 438    0    128 827    106 611    0Nguồn: Trung tâm Tư vấn mỏ và Công Nghiệp-TVN, 2008. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Về khả năng khai thác than, dựa trên cơ sở dự báo cho giai đoạn 2015-2030 trong quy hoạch phát triển ngành than theo số liệu bảng 2 dưới đây cho thấy:Bảng 2. Tổng hợp khả năng khai thác than đến năm 2030 Năm    2015    2020    2025    2030Sản lượng (triệu tấn)    55-58    60-65    66-70    Trên 75Nguồn: P3, số 60/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.-    Về dầu khí, cho đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%, chi tiết thể hiện cụ thể thông qua bảng số liệu số 3 dưới đây về trữ lượng đã được xác minh và chưa được xác minh.Bảng 3. Tổng hợp trữ lượng dầu khí đã xác minh và chưa xác minh.Danh mục    Tổng (tỷ tấn dầu quy đổi-TOE)Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí    3,8 - 4,2Trong đó: - Trữ lượng đã xác minh- Chưa xác minh    1,05 – 1,142,75 – 3,06Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Từ năm 2015-2025 khả năng khai thác được thể hiện thông qua bảng 4 dưới đây.Bảng 4. Quy hoạch khai thác dầu thô đến năm 2025 Năm    2015    2020    2025PA cơ sở (106 tấn)    20,0    20,7    21,7Trong đó nội địa (106 tấn)    17,0    16,3    16,2Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Sự sụt giảm về khai thác dầu thô sẽ phải thay thế và bù đắp vào các nguồn nhiên liệu năng lượng tiềm năng khác nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.-    Về Thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa.Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng chúng ta có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện nay các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và  700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác.-    Về năng lượng mặt trời, với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực nam bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…, một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường, mặt khác cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đén mức tới hạn thì nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn.-    Năng lượng sinh khối, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy chúng ta có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn, đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây tính toán tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, tuy nhiên mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình, trong tương lai đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam.-    Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB) như vậy nếu so với tiềm năng của thủy điện điền thì nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. Chúng ta đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra, thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện nếu không có trợ giá của Nhà nước.-    Năng lượng địa nhiệt, đây là nguồn năng lượng trong lòng đất, chúng ta cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung.-    Các dạng năng lượng khác, ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, từ kinh nghiệm khai thác các nguồn năng lượng khác đã có trên thế giới, ở Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dò hải lưu, băng cháy dưới đáy biển, chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn.II.    Tương quan kinh tế và năng lượng ở Việt Nam.Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030, trong đó đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự bảo đến năm 2030.Về kịch bản tăng trưởng kinh tế  tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư được thể hiện thông qua bảng 5 dưới đây.Bảng 5. Dự báo tăng trưởng GDP giai đoạn đến 2030Lĩnh vực    2011-2015    2016-2020    2021-2030P/A    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    CaoTăng trưởng GDP(%)    7,0    7,5    8,0    7,0    8,0    8,4    7,2    7,8    8,6Nông-lâm-thuỷ sản (%)    2,7    3,0    3,0    2,0    2,2    2,2    2,0    2,2    2,2CN-xây dựng(%)    7,5    8,4    9,0    7,5    8,6    9,3    7,4    8,1    9,1Dịch vụ (%)    8,0    8,2    8,7    8,0    9,0    9,3    8,0    8,6    9,2Nguồn: Nhóm nghiên cứu của Bộ KH&ĐT hỗ trợ lập TSĐ VII. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Như vậy từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông-lâm-thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp-xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuốngs còn 18,2% , sử dụng khí đốt tăng từ 1%lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030.Đối với sử dụng năng lượng dự báo cho các ngành, trên cơ sở tính toán và dự báo theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, kết quả đưa ra được thể hiện thông qua biểu đồ 1 dưới đây.Biểu đồ 1: Các lĩnh vực sử dụng năng lượng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ cho thấy, xét trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030 được các chuyên gia dự báo có một sự tăng đều thông qua biểu đồ 2 dưới đây.Biểu đồ 2. Tương quan kinh tế và NL, từ năm 2005 đến 2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ 2 cho thấy so sánh tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, từ năm 2025 đến năm 2030 khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm.III.Đề xuất giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó đối với ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kính tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản như sau.Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà chúng ta có ưu thế.Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng chúng ta không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, chúng ta nên nhập khẩu, chăng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập.Thứ ba, về lộ trình chúng ta buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy chúng ta sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra,Thứ tư, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo.Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen giống như văn hóa người Nhật. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ.Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả.Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, tuy nhiên chúng ta thực hiện theo định hướng chung của thế giới, chính vì vậy đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo.Kết luận.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030 chúng ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới chúng ta có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng chúng ta có thế mạnh.TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXBCTQG-Hà Nội 2011. 2.Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP). Dự án “tăng cường năng lực lồng ghép phát tiển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. Nghiên cứu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2011-2020. Báo cáo “Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH”. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ. 3.Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 4.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013. 5.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013.PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường.

                        Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

                        6-4-2014

                              Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng.

                        Đánh giá ảnh hưởng một số tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với khu vực ven biển thành phố Đà Nẵng

                        9-8-2015

                        Việt Nam có đới bờ biển dài hơn 3.200km với một chuỗi đô thị lớn, tập trung cư dân đông đúc, kinh tế phát triển đa ngành, nhưng rất dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu. Đối với khu vực bờ biển Trung Bộ trong những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan: bão không theo quy luật; mưa trái mùa; triều cường biên độ lớn… xuất hiện ngày càng nhiều về tần suất, càng mạnh về cường độ; có lúc vượt ngưỡng chịu tải của môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư, dẫn đến thảm họa môi trường, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các đô thị ven biển.

                        Sử dụng ảnh LANDSAT đa thời nghiên cứu diễn biến đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị

                        29-10-2015

                        Thành phố Đà Nẵng đang trong tiến trình xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường hướng tới hình ảnh một thành phố “thân thiện với môi trường”. Nhằm xây dựng cơ sở khoa học phục vụ công tác quy hoạch môi trường thành phố, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định sự phát triển và biến động không gian của đô thị Đà Nẵng từ năm 1990 đến năm 2015 sử dụng ảnh vệ tinh LANDSAT đa thời. Bằng phương pháp phân loại có kiểm định dựa vào bản đồ hiện trạng sử dụng đất của thành phố năm 2010, biến động không gian đô thị và các hợp phần của đô thị trong 6 quận nội thành qua thời gian đã được làm rõ.

                        Từ kinh nghiệm quốc tế đề xuất giải pháp chính sách khuyến khích thiết kế, chế tạo thiết bị chuyên dùng cho hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường

                        16-12-2024

                         Điều tra cơ bản trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ thiết yếu được Chính phủ giao cho Bộ TN&MT, bao trùm các lĩnh vực quan trọng của ngành như đo đạc bản đồ, điều tra tài nguyên đất, nước, khoảng sản...

                        Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon của hệ sinh thái biển và đất ngập nước

                        16-12-2024

                        Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (HST) tự nhiên, đặc biệt là HST rừng đã được nhiều tổ chức quốc tế và một số quốc gia triển khai, đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, hiện nay, có rất ít cơ chế, chương trình chi trả cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của HST tự nhiên. Kinh nghiệm xây dựng và triển khai các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for forest environmental services - PFES) là những ví dụ điển hình có thể tham khảo để xây dựng cơ chế, chương trình chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon đối với các HST tự nhiên, đặc biệt là HST biển và HST đất ngập nước (ĐNN) nội địa.

                        Nỗ lực ứng phó với thời tiết cực đoan ở Timor-Leste

                        16-12-2024

                        Timor-Leste, quốc đảo non trẻ ở Đông Nam Á, đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự tàn phá của cuộc khủng hoảng khí hậu. Để hỗ trợ khu vực này giảm thiểu tác động từ thời tiết khắc nghiệt, hàng loạt giải pháp đã được đưa ra với sự kết hợp giữa công nghệ, kiến thức cộng đồng và sự hỗ trợ của Liên hợp quốc.

                        Chính sách ưu đãi về tài chính trong phát triển khu công nghiệp sinh thái: Bài học kinh nghiệm từ ASEAN và hàm ý cho Việt Nam

                        17-12-2024

                          Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là mô hình hướng tới nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) và không phát thải, với mục tiêu tối ưu hóa sử dụng tài nguyên bằng cách tái chế chất thải từ quy trình sản xuất. Tại Việt Nam, các dự án thí điểm KCNST trong giai đoạn 2015-2023 đã đạt được một số kết quả khả quan nhưng còn đối mặt với những hạn chế về cơ chế tài chính.

                        Quản lý và bảo vệ môi trường đối với các công viên địa chất: Kinh nghiệm quốc tế và những gợi mở cho Việt Nam

                        18-12-2024

                          Tại Việt Nam, khái niệm công viên địa chất đã được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp lý như Luật Khoáng sản 2018 và Luật Bảo vệ môi trường 2020. Mặc dù có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí cơ bản, việc thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển các CVĐC ở Việt Nam còn gặp nhiều thách thức.

                        Một số giải pháp thúc đẩy phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải tại Việt Nam

                        6-1-2025

                        Quan điểm phát triển KTTH được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng cộng sản Việt Nam “Kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình nhiều quốc gia lựa chọn” và đề ra định hướng trong giai đoạn 2021-2030, Việt Nam “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng coi “khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất” là một trong những giải pháp chiến lược trong 10 năm tới.

                        Thực trạng phát sinh và giải pháp quản lý chất thải rắn y tế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

                        6-1-2025

                        Bài viết đánh giá thực trạng quản lý CTRYT tại Lạng Sơn, nhận diện các khó khăn và hạn chế, đồng thời đề xuất giải pháp dựa trên đặc thù điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của địa phương, nhằm góp phần cải thiện hiệu quả quản lý CTRYT, hướng đến mục tiêu BVMT và phát triển bền vững.