ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Phương pháp luận về đánh giá tác động lên môi trường của việc thực thi chính sách

Ngày đăng: 13 | 05 | 2013

Trong những năm gần đây, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, vấn đề lồng ghép các mục tiêu môi trường vào chính sách quản lý đang ngày càng được quan tâm. Việc đánh giá tác động đối với môi trường của các chính sách để đề ra các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực là rất quan trọng.

Ở nước ta hiện nay, việc đánh giá tác động môi trường đối với việc thực thi chính sách sau khi ban hành vẫn chưa được thực hiện một cách bài bản. Bài viết này có mục tiêu giới thiệu và đề xuất phương pháp luận về đánh giá tác động lên môi trường của việc thực thi chính sách làm cơ sở cho việc chỉnh sửa, hoàn thiện chính sách, nhằm hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường, hướng tới phát triển bền vững.

1. Đánh giá tác động chính sách là gì?

Trên thế giới và ở nước ta có nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về chính sách. Theo Vũ Cao Đàm, “chính sách là tập hợp các biện pháp được thể chế hóa của một chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý nhằm thúc đẩy đối tượng quản lý thực hiện mục tiêu mà chủ thể quản lý vạch ra”. Như vậy, có thể nói, chính sách công là tập hợp các biện pháp can thiệp được thể chế hóa mà Nhà nước đưa ra nhằm đạt được mục tiêu quản lý của mình.

Đánh giá tác động chính sách là dự báo những tác động có thể xảy ra của một dự thảo chính sách hoặc đo lường, phân tích các tác động về kinh tế, xã hội, môi trường đã xảy ra sau khi thực hiện một chính sách đã ban hành.

Đánh giá tác động chính sách gồm hai loại: (i) Đánh giá tác động chính sách trước khi ban hành (ex-ante assessment) là hoạt động phân tích, dự báo những tác động có thể có của chính sách sắp được ban hành, làm cơ sở để các nhà hoạch định chính sách lựa chọn phương án tối ưu để ban hành chính sách và; (ii) Đánh giá tác động sau khi ban hành chính sách (ex-post assessment) là việc rà soát, xem xét các tác động do việc thực thi chính sách sau khi ban hành đã tạo ra, làm cơ sở để chỉnh sửa, hoàn thiện hoặc bãi bỏ chính sách.

2. Đánh giá tác động đối với môi trường của chính sách ở Việt Nam

Về đánh giá tác động trước khi ban hành, ở nước ta, đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) đối với các dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (CQK) đã được áp dụng từ năm 2006 theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) 2005. Theo đó, “ĐMC là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển bền vững”. Ngoài ra, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) 2008, việc đánh giá tác động văn bản (regulatory impact assessment – RIA), trong đó bao gồm cả nội dung đánh giá tác động về môi trường, phải được thực hiện đối với các dự thảo văn bản luật, pháp lệnh và nghị định. Hiện nay Bộ Tư pháp đang triển khai xây dựng Dự thảo Sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá tác động VBQPPL và sẽ ban hành trong thời gian tới. Trên thế giới cũng có một số nước có đồng thời các quy định về ĐMC và RIA như Hà Lan, Đan Mạch, Phần Lan...

Trên thực tế, ở nước ta việc triển khai RIA mới được bắt đầu và còn chưa được tốt, còn hoạt động ĐMC, mặc dù đã được đẩy mạnh thời gian qua, song vẫn còn những tồn tại, bất cập về nhận thức, ý thức trách nhiệm, năng lực thực hiện và tính hiệu quả.

Về đánh giá tác động đối với môi trường của việc thực hiện chính sách sau khi được ban hành, nhìn chung, chưa có những hướng dẫn về phương pháp luận một cách rõ ràng cho việc triển khai thực hiện. Chưa có các hướng dẫn cụ thể về phương pháp, quy trình thực hiện đánh giá tác động lên môi trường của việc thực thi chính sách, mặc dù theo quy định của Luật ban hành các VBQPPL 2008, cần phải đánh giá tác động của các luật, pháp lệnh và nghị định sau 3 năm thực hiện. Dự thảo Sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá tác động VBQPPL do Bộ Tư pháp đang xây dựng cũng chỉ mới tập trung chủ yếu về RIA mà chưa đề cập một cách rõ ràng đến đánh giá tác động của việc thực thi chính sách sau khi ban hành.

3. Đề xuất phương pháp luận đánh giá tác động đối với môi trường của việc thực hiện chính sách sau khi ban hành

3.1. Quy trình đánh giá

a) Giai đoạn 1: Lập kế hoạch cho hoạt động đánh giá

- Bước 1: Xác định vấn đề: Trong bước này, người đánh giá cần xác định nội dung cốt lõi của chính sách, các câu hỏi nghiên cứu, các bên liên quan và mục đích, đối tượng sử dụng kết quả đánh giá. Cần phải làm rõ mục tiêu, nội dung, đặc điểm, các khía cạnh của chính sách. Cần xác định các câu hỏi nghiên cứu, bao gồm: các vấn đề môi trường trong khu vực nghiên cứu là gì và xu hướng ra sao?  Các tác động lên môi trường khi thực hiện chính sách là gì? Các thành phần môi trường nào sẽ chịu tác động (đất, nước, không khí, đa dạng sinh học...)?. Các bên liên quan cần được xác định gồm các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư. Kết quả đánh giá sẽ được sử dụng nhằm mục đích gì và cho ai. Việc đánh giá sẽ mang lại lợi ích gì trong việc điều chỉnh/xây dựng chính sách trong giai đoạn tới.

- Bước 2: Lựa chọn phương pháp/công cụ đánh giá: Có thể lựa chọn một trong 03 phương pháp tiếp cận sau: (i) Phương pháp thực nghiệm (đối chứng), thường phù hợp đối với chính sách đang trong giai đoạn thử nghiệm. Theo đó, một vùng/khu vực có điều kiện môi trường tự nhiên, xã hội tương tự mà không áp dụng chính sách có thể được chọn làm “đối chứng”. Thông qua việc so sánh chất lượng môi trường của khu vực bị tác động do áp dụng chính sách và  khu vực “đối chứng” sẽ cho thấy các tác động lên môi trường của việc thực thi chính sách; (ii)Phương pháp phân tích, so sánh “trước –sau”: Các tác động lên môi trường có thể được đánh giá thông qua việc so sánh chất lượng môi trường, diễn biến các vấn đề môi trường tại khu vực nghiên cứu trước và sau khi thực hiện chính sách; (iii)Phương pháp so sánh mục tiêu – kết quả: là việc so sánh các mục tiêu môi trường đã được xác định bởi bản thân chính sách, hoặc bởi các chính sách về BVMT với kết quả đạt được trên thực tế sau khi thực hiện chính sách.

Về các các công cụ đánh giá có thể xem xét, lựa chọn để sử dụng kết hợp với nhau các công cụ như: phương pháp chuyên gia; phân tích ngoại suy; phương pháp điều tra, khảo sát; tham vấn các bên liên quan, v.v...

- Bước 3: Lựa chọn chỉ số/chỉ thị đánh giá: Việc lựa chọn các chỉ số/chỉ thị đánh giá là để đo mức độ tác động đối với môi trường. Các chỉ số sẽ thể hiện diễn biến chất lượng môi trường, và qua đó là các tác động lên môi trường. Vì vậy, các chỉ số được lựa chọn sao cho biểu thị đặc trưng cho vấn đề môi trường đồng thời phải có tính khả thi cao về mức độ sẵn có của số liệu. Thông thường các chỉ số đánh giá bao gồm chỉ thị về chất thải gây ô nhiễm môi trường (nước thải, khí thải, chất thải rắn), về chất lượng môi trường (môi trường nước, đất, không khí), về đa dạng sinh học (rừng và các hệ sinh thái, các loài và nguồn gen), về sự cố môi trường, về phát thải khí nhà kính, tác động của biến đổi khí hậu...

Đối với một số văn bản cụ thể như các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có thể một số trong các chỉ thị này đã được xác lập ngay từ khi xây dựng với mục đích sử dụng cho việc đánh giá kết quả sau này.

- Bước 4: Lập kế hoạch chi tiết: Cơ quan đánh giá cần lập kế hoạch chi tiết cho hoạt động đánh giá. Kế hoạch cần bao gồm: giới thiệu chung; mục tiêu hoạt động đánh giá; phạm vi đánh giá; nội dung các nhiệm vụ cần triển khai thực hiện; phương pháp thực hiện; sản phẩm dự kiến và các yêu cầu; tiến độ triển khai thực hiện và phân bổ kinh phí.

Sau khi xây dựng dự thảo kế hoạch, đơn vị đánh giá cần tổ chức tham vấn các bên liên quan, các chuyên gia để có thể thu thập các ý kiến góp ý về phương pháp, các công cụ, các chỉ số/chỉ thị đánh giá cũng như kế hoạch đánh giá. Việc tham vấn cũng sẽ tạo ra sự đồng thuận, giữa các bên liên quan, thúc đẩy hoạt động đánh giá được thành công.

b) Giai đoạn 2: Thực hiện hoạt động đánh giá

- Bước 5: Thu thập số liệu/thông tin về tác động lên môi trường: Việc  thu thập số liệu/thông tin có thể thực hiện theo hai cách: thông qua bảng hỏi/phiếu điều tra hoặc thông qua phỏng vấn sâu. Trong trường hợp thu thập thông tin qua bảng hỏi, cần lưu ý và cân nhắc kỹ lưỡng các câu hỏi đặt ra, theo hướng bảo đảm tính khách quan, không áp đặt, gợi ý mà phải để cho người được phỏng vấn tự đưa ra đánh giá của mình. Về phương diện này, người đánh giá nên tham vấn ý kiến của các chuyên gia có kinh nghiệm trong hoạt động điều tra xã hội học, nhằm có thể đạt được một bảng hỏi tốt nhất cho việc thu thập số liệu.

Kinh nghiệm cho thấy, việc thu thập thông tin qua bảng hỏi thường mất nhiều thời gian hơn dự tính. Ngoài ra, sự tham gia của các bên liên quan ở nước ta thường rất hạn chế. Do vậy, người đánh giá cần tạo được sự ủng hộ, tham gia của các bên liên quan trong quá trình thu thập số liệu, quá trình tham vấn.

- Bước 6: Thực hiện khảo sát thực tế/nghiên cứu điểm

Trước hết cần xây dựng các tiêu chí để lựa chọn địa điểm khảo sát cho phù hợp, thông thường bao gồm các yêu cầu sau: (i) phải là nơi có những biểu hiện rõ ràng về các tác động lên môi trường từ việc thực thi chính sách, thí dụ như các địa điểm khai thác khoáng sản gây ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước; dự án thủy điện gây cạn kiệt dòng sông...; (ii) phải mang tính đặc trưng của vùng, miền, khu vực địa lý trong cả nước; (ii) phải đủ lớn để bao trùm nội dung vấn đề nghiên cứu, ví dụ như chọn cả một lưu vực sông, từ thượng nguồn tới hạ lưu, để khảo sát tác động lên môi trường từ chính sách phát triển thủy điện...

Công tác chuẩn bị cho việc khảo sát thực địa cũng đóng vai trò quan trọng. Kế hoạch đi khảo sát cần được xây dựng từ trước, với thời gian, nội dung, nơi làm việc cần được vạch sẵn. Các bên được phỏng vấn cần được thông báo và khẳng định từ trước để có sự chuẩn bị tốt nhất. Nội dung các cuộc phỏng vấn là nhằm tìm hiểu về đánh giá của các bên liên quan về những tác động đã xảy ra đối với môi trường tại địa điểm, xác định các nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp gây ra các tác động. Từ đó, người đánh giá sẽ có một cái nhìn thực tế về các tác động lên môi trường từ việc thực thi chính sách, giúp rõ hơn trong việc phân tích, soạn thảo báo cáo sau này.

- Bước 7: Phân tích/đánh giá tác động: Trước hết, người đánh giá cần sàng lọc dữ liệu và thông tin đã thu thập được. Trong một số trường hợp cần phải thực hiện tham vấn bổ sung, thu thập thêm thông tin, hoặc khẳng định lại với bên cung cấp thông tin về những số liệu/thông tin còn chưa chắc chắc.

Dựa trên các số liệu/thông tin, người đánh giá cần đưa ra các nhận định về các tác động tích cực, tiêu cực đối với môi trường. Cụ thể, các tác động lên môi trường nước, đất, không khí, đa dạng sinh học, làm xảy ra sự cố môi trường và gia tăng biến đổi khí hậu… cần được thể hiện qua sự biến đổi của các chỉ thị/chỉ số môi trường. Sự biến đổi này có thể theo chiều hướng tích cực, tiêu cực hoặc khác nhau ở tại nhiều địa điểm trong khu vực nghiên cứu. Vì vậy cần tổng hợp, thống kê, phân tích các số liệu này để chỉ ra các tác động lên môi trường một cách tổng thể trên phạm vi toàn khu vực nghiên cứu. Các phương pháp sử dụng có thể là phương pháp thống kê, phương pháp ngoại suy, phương pháp chuyên gia... nhằm đưa ra những nhận định dựa trên bằng chứng (là các số liệu/thông tin thu thập được) về tác động lên môi trường của quá trình thực hiện chính sách.

- Bước 8: Đưa ra các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện chính sách: Trước hết, người đánh giá cần xác định được các nguyên nhân gây ra các tác động, gồm hai loại: (i) do những bất cập của bản thân chính sách và; (ii) do quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Sau đó, từ các nhận định/đánh giá về các tác động tích cực/tiêu cực và các nguyên nhân, người đánh giá cần đưa ra các khuyến nghị, đề xuất. Các đề xuất kiến nghị có thể bao gồm hai nhóm: (i) Kiến nghị về việc bổ sung, điều chỉnh chính sách, cụ thể là bổ sung những “lỗ hổng” hoặc chỉnh sửa những chồng chéo/bất cập đã được phát hiện và; (ii) Kiến nghị đối với việc tổ chức thực hiện chính sách, bảo đảm tuân thủ các quy định về BVMT để giảm thiểu những tác động tiêu cực lên môi trường của việc thực hiện chính sách.

- Bước 9: Nhận xét về kết quả đánh giá tác động: Người đánh giá cần nêu bật được những tồn tại nhất định của kết quả đánh giá, thông thường là về mức độ tin cậy của số liệu và những vấn đề còn chưa chắc chắn. Về mức độ tin cậy của số liệu, thường có các bất cập trong việc thu thập số liệu và chất lượng của số liệu thu thập đã đưa vào phân tích, đánh giá. Về những vấn đề còn chưa chắc chắn, cần nêu rõ những nhận định, đánh giá về tác động lên môi trường còn mang tính chất phỏng đoán, ngoại suy, định tính mà chưa có (hoặc đã có nhưng chưa đầy đủ) các bằng chứng cụ thể. Ngoài ra, những khó khăn, vướng mắc khác trong quá trình đánh giá, như thiếu sự tham gia của các bên liên quan, thiếu các số liệu cần thiết, khó khăn về các nguồn lực về tài chính, thời gian ..., làm ảnh hưởng đến chất lượng của kết quả đánh giá cũng cần được chỉ rõ để các bên liên quan có thể hình dung.

- Bước 10: Tham vấn các bên liên quan về kết quả đánh giá: Sau khi hoàn thành việc đánh giá, cần phải xây dựng dự thảo báo cáo đánh giá và lấy ý kiến rộng rãi các bên liên quan. Việc lấy ý kiến có thể thực hiện thông qua hình thức tổ chức các hội thảo tham vấn rộng rãi với các bên liên quan gồm các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội, các chuyên gia, cộng đồng... Đối với các chuyên gia có thể xin ý kiến phản biện. Đối với cộng đồng có thể dùng hình thức công bố dự thảo báo cáo rộng rãi trên trang thông tin điện tử để lấy ý kiến.

c) Giai đoạn 3: Sử dụng kết quả đánh giá

- Bước 11: Công bố và thông tin kết quả đánh giá: Sau khi tham vấn các bên liên quan, người đánh giá cần chỉnh sửa/hoàn thiện báo cáo đánh giá và công bố, chia sẻ, thông tin đến các nhà hoạch định chính sách để có những sửa đổi, bổ sung đối với chính sách. Đồng thời, kết quả đánh giá cũng nên được chia sẻ rộng rãi với các bên liên quan, các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học... để nâng cao nhận thức, hiểu biết về các tác động tiêu cực lên môi trường trong quá trình thực hiện chính sách. Các kết quả đánh giá có thể được tổng hợp ngắn gọn, dễ hiểu, dưới dạng các khuyến nghị/thảo luận chính sách (policy paper/policy brief) để cung cấp cho các nhà quản lý/các cấp ra quyết định.

- Bước 12: Sử dụng kết quả đánh giá: Kết quả đánh giá các tác động lên môi trường của việc thực hiện chính sách sẽ được sử dụng vào mục đích nhằm chỉnh sửa hoặc bãi bỏ chính sách. Vì vậy các cơ quan sử dụng kết quả đánh giá thường là các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là các bộ, ngành, song trong một số trường hợp cũng có thể là các doanh nghiệp.

3.2. Các phương pháp, công cụ sử dụng trong đánh giá

a) Các phương pháp/cách tiếp cận

Có 03 phương pháp tiếp cận có thể áp dụng khi thực hiện đánh giá việc thực hiện chính sách, đó là: (i) Phương pháp nghiên cứu trước-sau; (ii) Phương pháp thực nghiệm/đối chứng và; (iii) Phương pháp so sánh mục tiêu-kết quả như đã giới thiệu ở trên.

b) Các công cụ sử dụng

Các công cụ sử dụng trong đánh giá tác động chính sách nói chung, đánh giá tác động môi trường của chính sách nói riêng, thường bao gồm: phương pháp nghiên cứu tại bàn, phương pháp chuyên gia, phương pháp điều tra, thu thập số liệu/thông tin qua bảng hỏi, phương pháp khảo sát thực địa, phỏng vấn sâu, phương pháp tham vấn thông qua hội thảo, hội nghị, phương pháp pân tích các xu hướng và ngoại suy, phương pháp ma trận…

4. Kết luận

Tóm lại, khi đánh giá tác động đối với môi trường của việc thực hiện một chính sách cần phải xác định được vấn đề một cách chính xác, rõ ràng và quá trình đánh giá cần được tuân thủ một trình tự với các bước nhất định. Các phương pháp, công cụ, chỉ thị/chỉ số cần được cân nhắc lựa chọn để có thể thu thập được các thông tin, làm cơ sở để đạt được một kết quả đánh giá có chất lượng cao. Quá trình tham vấn các bên liên quan, khảo sát thực địa và phỏng vấn sâu cũng là những hoạt động rất quan trọng cho quá trình đánh giá. Cuối cùng, kết quả đánh giá cần được công bố, thông tin đúng địa chỉ để có thể được sử dụng hữu ích cho việc chỉnh sửa/hoàn thiện chính sách. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, đề xuất phương pháp luận này là mới chỉ là kết quả bước đầu, để hoàn thiện thêm cần tiếp tục được nghiên cứu, thảo luận.

 

TS. Nguyễn Trung Thắng, ThS. Hoàng Hồng Hạnh
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
(Bài viết đã được đăng tải tại Tạp chí Môi trường, 3/2013)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Vũ Cao Đàm, Giáo trình khoa học chính sách, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2011.
  2. Luật BVMT 2005 và các văn bản hướng dẫn
  3. Luật ban hành VBQPPL 2008 và các văn bản hướng dẫn
  4. Bộ Tư pháp, Dự thảo Sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá tác động văn bản quy phạm pháp luật, 01/2010.
  5. Department of Business, Innovation and Skills, UK Government, Impact Assessment Overview, 8/2011.
  6. HM Treasury, The Green Book – Appraisal and Evaluation in Central Government, 2010.
  7. HM Treasury, The Magenta Book – Guidance for Evaluation, 2011.

 

NỘI DUNG KHÁC

Nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

6-11-2013

Tính đến nay, kể từ khi đổi mới (1986), Việt Nam đã mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhờ đó đã mang lại tăng trưởng kinh tế liên tục và có một sự tăng tiến vượt bậc, từ vị trí là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, nay đã bước vào ngưỡng của các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.

Giải pháp để giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với giá thị trường ở Việt Nam

1-12-2013

Kể từ năm 1986, với chính sách “mở cửa”,  kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ  mô hình quản lý “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” sang mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cùng với sự chuyển đổi này những chính sách quản lý đất đai cũng được điều chỉnh để phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Khai thác, chế biến khoáng sản cho hôm nay và cho mai sau - vấn đề lựa chọn khôn khéo và đánh đổi qua ví dụ sa khoáng titan ven biển miền Trung

2-12-2013

Việt Nam nằm ở vị trí giao nhau của 2 vành đai sinh khoáng: vành đai Tây Thái Bình Dương và vành đai Địa Trung Hải, vì vậy tài nguyên khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại và tương đối phong phú. Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.

Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

14-1-2014

Chiến lược tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012, để thực hiện chiến lược đó, một trong các nội dung quan trọng là huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng xanh đã xác định. Tuy nhiên huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với những yêu cầu của Chiến lược đã đề ra.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt nam và khả năng đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế.

1-4-2014

Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng. Việt  Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu-năng lượng đa dạng đầy đủ các chủng loại như than, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới mà chúng ta còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường.I.    Khái quát về nguồn nhiên liệu, năng lượng và khả năng khai thác của Viêt Nam.-    Nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta, trước hết phải kể đến đó là than, khai thác và sử dụng than ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, từ khi người Pháp đến nước ta cách đấy hàng trăm năm, mức độ khai thác, sử dụng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xét về trữ lượng, tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Vê trữ lượng và chủng loại than phân theo các cấp và của Việt Nam thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây.Bảng 1. Trữ lượng than phân theo các cấp và các chủng loại thanHạng mục    Trữ l¬ượng xác minh (TK-TD)    Phân chia trữ lượng đã xác minh theo cấp (1000 tấn) A+B+C    A+B    C 1    C 2    PTổng cộng      6 140 683    5 629 252    356 789    2 264 480    3 007 983    511 4311    Bể than QN     4 121 745    4121745    301335    1508643    2311767    0 Vùng nội địa-TKV     165 110    165110    55454    91901    17755    0 Các mỏ than địa phương      37 434    18478    0    10238    8240    18956 Vùng than ĐBSH     1 580 956    1088481    0    524871    563610    492475 Tổng Antraxit+ khác     5 905 245     5 393 814     356 789     2 135 653     2 901 372     511 4312    Than bùn     235 438    235 438    0    128 827    106 611    0Nguồn: Trung tâm Tư vấn mỏ và Công Nghiệp-TVN, 2008. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Về khả năng khai thác than, dựa trên cơ sở dự báo cho giai đoạn 2015-2030 trong quy hoạch phát triển ngành than theo số liệu bảng 2 dưới đây cho thấy:Bảng 2. Tổng hợp khả năng khai thác than đến năm 2030 Năm    2015    2020    2025    2030Sản lượng (triệu tấn)    55-58    60-65    66-70    Trên 75Nguồn: P3, số 60/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.-    Về dầu khí, cho đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%, chi tiết thể hiện cụ thể thông qua bảng số liệu số 3 dưới đây về trữ lượng đã được xác minh và chưa được xác minh.Bảng 3. Tổng hợp trữ lượng dầu khí đã xác minh và chưa xác minh.Danh mục    Tổng (tỷ tấn dầu quy đổi-TOE)Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí    3,8 - 4,2Trong đó: - Trữ lượng đã xác minh- Chưa xác minh    1,05 – 1,142,75 – 3,06Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Từ năm 2015-2025 khả năng khai thác được thể hiện thông qua bảng 4 dưới đây.Bảng 4. Quy hoạch khai thác dầu thô đến năm 2025 Năm    2015    2020    2025PA cơ sở (106 tấn)    20,0    20,7    21,7Trong đó nội địa (106 tấn)    17,0    16,3    16,2Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Sự sụt giảm về khai thác dầu thô sẽ phải thay thế và bù đắp vào các nguồn nhiên liệu năng lượng tiềm năng khác nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.-    Về Thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa.Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng chúng ta có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện nay các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và  700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác.-    Về năng lượng mặt trời, với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực nam bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…, một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường, mặt khác cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đén mức tới hạn thì nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn.-    Năng lượng sinh khối, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy chúng ta có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn, đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây tính toán tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, tuy nhiên mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình, trong tương lai đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam.-    Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB) như vậy nếu so với tiềm năng của thủy điện điền thì nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. Chúng ta đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra, thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện nếu không có trợ giá của Nhà nước.-    Năng lượng địa nhiệt, đây là nguồn năng lượng trong lòng đất, chúng ta cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung.-    Các dạng năng lượng khác, ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, từ kinh nghiệm khai thác các nguồn năng lượng khác đã có trên thế giới, ở Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dò hải lưu, băng cháy dưới đáy biển, chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn.II.    Tương quan kinh tế và năng lượng ở Việt Nam.Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030, trong đó đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự bảo đến năm 2030.Về kịch bản tăng trưởng kinh tế  tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư được thể hiện thông qua bảng 5 dưới đây.Bảng 5. Dự báo tăng trưởng GDP giai đoạn đến 2030Lĩnh vực    2011-2015    2016-2020    2021-2030P/A    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    CaoTăng trưởng GDP(%)    7,0    7,5    8,0    7,0    8,0    8,4    7,2    7,8    8,6Nông-lâm-thuỷ sản (%)    2,7    3,0    3,0    2,0    2,2    2,2    2,0    2,2    2,2CN-xây dựng(%)    7,5    8,4    9,0    7,5    8,6    9,3    7,4    8,1    9,1Dịch vụ (%)    8,0    8,2    8,7    8,0    9,0    9,3    8,0    8,6    9,2Nguồn: Nhóm nghiên cứu của Bộ KH&ĐT hỗ trợ lập TSĐ VII. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Như vậy từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông-lâm-thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp-xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuốngs còn 18,2% , sử dụng khí đốt tăng từ 1%lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030.Đối với sử dụng năng lượng dự báo cho các ngành, trên cơ sở tính toán và dự báo theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, kết quả đưa ra được thể hiện thông qua biểu đồ 1 dưới đây.Biểu đồ 1: Các lĩnh vực sử dụng năng lượng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ cho thấy, xét trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030 được các chuyên gia dự báo có một sự tăng đều thông qua biểu đồ 2 dưới đây.Biểu đồ 2. Tương quan kinh tế và NL, từ năm 2005 đến 2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ 2 cho thấy so sánh tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, từ năm 2025 đến năm 2030 khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm.III.Đề xuất giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó đối với ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kính tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản như sau.Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà chúng ta có ưu thế.Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng chúng ta không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, chúng ta nên nhập khẩu, chăng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập.Thứ ba, về lộ trình chúng ta buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy chúng ta sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra,Thứ tư, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo.Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen giống như văn hóa người Nhật. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ.Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả.Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, tuy nhiên chúng ta thực hiện theo định hướng chung của thế giới, chính vì vậy đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo.Kết luận.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030 chúng ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới chúng ta có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng chúng ta có thế mạnh.TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXBCTQG-Hà Nội 2011. 2.Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP). Dự án “tăng cường năng lực lồng ghép phát tiển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. Nghiên cứu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2011-2020. Báo cáo “Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH”. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ. 3.Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 4.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013. 5.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013.PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

6-4-2014

      Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng.

Đánh giá ảnh hưởng một số tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với khu vực ven biển thành phố Đà Nẵng

9-8-2015

Việt Nam có đới bờ biển dài hơn 3.200km với một chuỗi đô thị lớn, tập trung cư dân đông đúc, kinh tế phát triển đa ngành, nhưng rất dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu. Đối với khu vực bờ biển Trung Bộ trong những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan: bão không theo quy luật; mưa trái mùa; triều cường biên độ lớn… xuất hiện ngày càng nhiều về tần suất, càng mạnh về cường độ; có lúc vượt ngưỡng chịu tải của môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư, dẫn đến thảm họa môi trường, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các đô thị ven biển.

Sử dụng ảnh LANDSAT đa thời nghiên cứu diễn biến đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị

29-10-2015

Thành phố Đà Nẵng đang trong tiến trình xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường hướng tới hình ảnh một thành phố “thân thiện với môi trường”. Nhằm xây dựng cơ sở khoa học phục vụ công tác quy hoạch môi trường thành phố, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định sự phát triển và biến động không gian của đô thị Đà Nẵng từ năm 1990 đến năm 2015 sử dụng ảnh vệ tinh LANDSAT đa thời. Bằng phương pháp phân loại có kiểm định dựa vào bản đồ hiện trạng sử dụng đất của thành phố năm 2010, biến động không gian đô thị và các hợp phần của đô thị trong 6 quận nội thành qua thời gian đã được làm rõ.

Từ kinh nghiệm quốc tế đề xuất giải pháp chính sách khuyến khích thiết kế, chế tạo thiết bị chuyên dùng cho hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường

16-12-2024

 Điều tra cơ bản trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ thiết yếu được Chính phủ giao cho Bộ TN&MT, bao trùm các lĩnh vực quan trọng của ngành như đo đạc bản đồ, điều tra tài nguyên đất, nước, khoảng sản...

Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon của hệ sinh thái biển và đất ngập nước

16-12-2024

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (HST) tự nhiên, đặc biệt là HST rừng đã được nhiều tổ chức quốc tế và một số quốc gia triển khai, đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, hiện nay, có rất ít cơ chế, chương trình chi trả cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của HST tự nhiên. Kinh nghiệm xây dựng và triển khai các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for forest environmental services - PFES) là những ví dụ điển hình có thể tham khảo để xây dựng cơ chế, chương trình chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon đối với các HST tự nhiên, đặc biệt là HST biển và HST đất ngập nước (ĐNN) nội địa.

Nỗ lực ứng phó với thời tiết cực đoan ở Timor-Leste

16-12-2024

Timor-Leste, quốc đảo non trẻ ở Đông Nam Á, đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự tàn phá của cuộc khủng hoảng khí hậu. Để hỗ trợ khu vực này giảm thiểu tác động từ thời tiết khắc nghiệt, hàng loạt giải pháp đã được đưa ra với sự kết hợp giữa công nghệ, kiến thức cộng đồng và sự hỗ trợ của Liên hợp quốc.

Chính sách ưu đãi về tài chính trong phát triển khu công nghiệp sinh thái: Bài học kinh nghiệm từ ASEAN và hàm ý cho Việt Nam

17-12-2024

  Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là mô hình hướng tới nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) và không phát thải, với mục tiêu tối ưu hóa sử dụng tài nguyên bằng cách tái chế chất thải từ quy trình sản xuất. Tại Việt Nam, các dự án thí điểm KCNST trong giai đoạn 2015-2023 đã đạt được một số kết quả khả quan nhưng còn đối mặt với những hạn chế về cơ chế tài chính.