ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

Ngày đăng: 06 | 11 | 2013

Tính đến nay, kể từ khi đổi mới (1986), Việt Nam đã mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhờ đó đã mang lại tăng trưởng kinh tế liên tục và có một sự tăng tiến vượt bậc, từ vị trí là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, nay đã bước vào ngưỡng của các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.

Để nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo tính hiệu quả cao và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đòi hỏi chúng ta phải cấu trúc lại cơ cấu của nền kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế nhằm ưu tiên và thúc đẩy những ngành, vùng và thành phần kinh tế sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ  chiều rộng sang chiều rộng kết hợp với chiều sâu, đầu tư cho đổi mới khoa học công nghệ, tăng hàm lượng chất xám trong khai thác và sử dụng tài nguyên, giảm áp lực khai thác tài nguyên. Phát huy các lợi thế sẵn có của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam cho tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Đặt vấn đề

Sau 27 năm mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ cao giúp cho chúng ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài sau nhiều năm kể từ ngày hòa bình lập lại và thống nhất đất nước. So với thời kỳ trước đổi mới, giai đoạn 1976-1985 tăng trưởng đạt khoảng 2%/năm; Sau 5 năm đổi mới giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng trưởng gần gấp đôi xấp xỉ 3,9%; Giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng trung bình tiếp tục đạt hơn gấp đôi khoảng 8,2%; Giai đoạn 1996-2000 hơi giảm so với 5 năm trước đạt bình quân 7,0%; Giai đoạn 2001-2005 có sự nhích lên đạt trung bình 7,5%; Giai đoạn 2006-2010 giảm xuống mức 7%, thấp hơn so với kế hoạch đặt ra (7,5-8%) nhưng cao hơn mức bình quân khu vực Đông Nam Á; Giai đoạn 2011-2015 dự kiến 2 kịch bản đạt mức trung bình 6,5% hoặc 7% (2 kịch bản cho kinh tế Việt Nam 2011-2015 Chính phủ trình Quốc hội). Nhờ sự tăng trưởng liên tục dương đã đưa nền kinh tế nước ta từ chỗ là quốc gia xếp hạng có thu nhập thấp, chúng ta đã vươn lên trở thành nhóm nước có thu nhập trung bình thấp của thế giới và đang hướng tới đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đã nhận thấy chất lượng và hiệu quả của quá trình tăng trưởng vẫn chưa có nhiều cải thiện, tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào khai thác các lợi thế của tự nhiên sẵn có, sự đóng góp của khoa học và công nghệ cho tăng trưởng nhỏ bé, năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp. Mới đây theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2011-2012 tại diễn đàn kinh tế thế giới (WFF), Việt Nam tụt 6 bậc so với năm 2010-2011, đứng thứ 65/142 các quốc gia được xếp hạng. Các chỉ số năng lực cạnh tranh (GCI) có tới 10 trong tổng số 12 chỉ số chính của GCI bị mất điểm. Nếu so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, nước ta với vị trí thứ 65 trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh năm 2011 như Singapore, Malaysia, Indonesia, Brunei khoảng cách của Việt Nam với các nước này càng xa (Singgapore xếp thứ 2, Malaysia xếp thứ 21, Brunei xếp thứ 28 và Indonesia xếp thứ 46).

Sự tụt hậu năng lực cạnh tranh, xét trong điều kiện thu hút đầu tư giữa các nước ngày càng gay gắt đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần phải có những điều chỉnh về mặt chính sách nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng tính hiểu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua xem xét lại khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, tăng hàm lượng khoa học, giảm áp lực môi trường góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế phù hợp với xu thế phát triển mới.

I. Nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tiền đề cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhìn từ góc độ vĩ mô một quốc gia trong quá trình phát triển nếu biết tận dụng lợi thế của tự nhiên sẽ nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Lợi thế tự nhiên về cơ bản có hai yếu tố cấu thành là vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Trong phát triển kinh tế, vị trí địa lý sẽ làm tăng giá trị gia tăng của hoạt động giao thông và thương mại, còn tài nguyên thiên nhiên sẽ có ưu thế về cạnh tranh giá thành thông qua qui mô số lượng, chất lượng và tính chất đặc thù của tài nguyên thiên nhiên mà quốc gia khác không thể có được do thiên nhiên ban tặng.

Theo đánh giá của các học giả địa lý và các nhà nghiên cứu thiên nhiên Việt Nam cho rằng nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế, vị trí địa-chính trị quan trọng trong khu vực và trên thế giới, khi chúng ta mới mở cửa (1986) đánh giá về vị trí địa lý của Việt Nam có học giả cho rằng, đối với thể chế kinh tế thị trường phân bố vị trí kinh doanh gần mặt đường đã khó, ngã tư mặt đường càng khó, trong khí đó vị trí địa lý của Việt Nam nằm trên ngã sáu của các tuyến giao thông thương mại quan trọng của thế giới (tuyến giao thông Bắc-Nam, Đông-Tây và Đông Bắc Á-Tây Nam Á) mà chúng ta không biết tận dụng. Đối với tài nguyên thiên nhiên, nước ta được đánh giá là quốc gia có số lượng chủng loại tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, trong đó có những tài nguyên có nhiều tiềm năng và có khả năng cạnh tranh quy mô toàn cầu.

Lợi thế vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên cũng chỉ dừng lại ở tiềm năng nếu chúng ta không biết tận dụng hoặc tận dụng không đúng những ưu thế này trong phát triển kinh tế. Để khai thác các tiềm năng đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận thấu đáo mô hình tăng trưởng, cấu trúc của nền kinh tế, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Việt Nam đã trải qua chặng đường tăng trưởng kinh tế liên tục từ khi chúng ta bắt đầu đổi mới đến nay, trong đó có những giai đoạn rất ấn tượng, tăng trưởng kinh tế đạt mức cao so với khu vực và thế giới, chẳng hạn giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng trung bình 8,2%, giai đoạn 2001-2005 đạt trung bình 7,5% sau đó tiếp tục tăng cho đến giữa năm 2007 đạt đỉnh 8,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng có xu hướng giảm dần nhất là từ sau năm 2008 do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, đồ thị hình 1 dưới đây thể hiện rõ điều đó.

Hình 1: Tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2002-2012 (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK, nhiều năm) và “ Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới”- Sách tham khảo, CIEM .

Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng chững lại và phục hồi yếu. Như vậy chúng ta có thể đưa ra nhận định, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian vừa qua chưa ổn định, một mặt do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, mặt khác do bản thân nội tại của mô hình tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu của 3 giai đoạn phát triển kinh tế, ở giai đoạn này tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư và khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu. Nhận thức được vấn đề này, trong văn kiện đại Hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định một trong những định hướng mới cho mục tiêu 5 năm 2011-2016 là “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”. Từ chủ trương của Đảng cho thấy đối với tài nguyên thiên nhiên trong khai thác và sử dụng cho tăng trưởng kinh tế, các ngành, lĩnh vực cũng phải có sự chuyển đổi mô hình không chỉ khai thác những ưu thế sẵn có do thiên nhiên ban tặng bằng mọi giá cho tăng trưởng kinh tế, gây nên lãng phí và kém hiệu quả như trước đây, cần phải chuyển hướng sang khai thác và sử dụng theo chiều sâu, lấy tiêu chí hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh đặt lên hàng đầu. Những tài nguyên thiên nhiên nếu khai thác và sử dụng không hiệu quả, sức cạnh tranh kém, thay vì khai thác trong nước bằng nhập khẩu từ nước khác. Chẳng hạn như than đá và gỗ nguyên liệu thời gian vừa qua nước ta đã nhập khẩu từ Indonesia đáp ứng nhu cầu trong nước là những ví dụ điển hình. Cần có lộ trình đầu tư chiều sâu trong khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nhất là đầu tư đổi mới công nghệ.

1. Tái cấu trúc nền kinh tế gắn với khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

Tái cấu trúc nền kinh tế hiện nay là vấn đề then chốt không chỉ đối với nước ta mà còn cho hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là từ sau năm 2008 diễn ra khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế với quy mô toàn cầu, bắt đầu từ khu vực Bắc Mỹ và sau đó là châu Âu. Việt Nam cũng bị tác động đáng kể, tăng trưởng kinh tế sụt giảm về mức 5,3%-6,8%, nhiều doanh nghiệp phá sản, kinh tế phục hồi chậm, hàng hóa sản xuất khó tiêu thụ trên thị trường, nguồn thu ngân sách Nhà nước không đạt như mong muốn. Trước thực tế đó, cùng với chủ trương chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng đã khẳng định  “Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế”. Như vậy nhìn từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế, chúng ta phải cơ cấu lại ngành, vùng và thành phần kinh tế:

-         Đối với cơ cấu ngành

Cần phải cơ cấu lại ngành nhằm hạn chế bớt những ngành phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo, giá trị gia tăng và hiệu quả kinh tế thấp; Những ngành có công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều năng lượng và tốn kém tài nguyên, kém sức cạnh tranh trên thị trường cũng cần phải được cân nhắc và dần dần loại bỏ; Ưu tiên các ngành có công nghệ cao, chế biến sâu, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện cơ cấu lại ngành gắn với khai thác sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên cần tiến hành quy hoạch lại các ngành, tập trung ưu tiên phát triển những ngành có hiệu quả kinh tế cao và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên trong nền kinh tế.

-         Cơ cấu vùng

Đối với cơ cấu vùng, tùy theo đặc trưng kinh tế-sinh thái của từng vùng để có sự ưu tiên đầu tư và phát triển hợp lý, dựa vào khai thác về thế mạnh vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên theo ưu thế của từng vùng cho phát triển kinh tế. Cần loại bỏ đầu tư dàn trải như kiểu trước đây chưa tính tới ưu thế vùng, chẳng hạn như đối với sản xuất xi măng hay một số khoáng sản kim loại khác mà chúng ta đã làm không chỉ kém hiệu quả, sức cạnh tranh yếu mà còn gây ra lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường. Tập trung vào một số vùng cơ bản có thế mạnh về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên để đầu tư theo chiều sâu trên cơ sở có luận chứng kinh tế-kỹ thuật, chứng minh được tính hiệu quả và vượt trội so với các vùng khác đối với cùng loại tài nguyên. Phát triển sản xuất chuyên môn hóa sản phẩm theo đặc trưng vùng dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và vị trí của vùng. Để thực hiện cơ cấu lại vùng, trước hết cần tiến hành quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành chuyên môn hóa theo vùng trên cơ sở ưu thế vùng về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Quy hoạch này là cơ sở để huy động nguồn lực đầu tư vào phát triển vùng.

-         Cơ cấu lại thành phần kinh tế

Kể từ khi mở cửa, chúng ta đã có chính sách khuyến khích mọi thành phần cùng tham gia đầu tư vào phát triển kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên trải qua thực tiễn tham gia của các thành phần kinh tế vừa qua cho thấy điều đáng lo ngại là trong khi khu vực kinh tế trong nước nhập siêu lớn thì khu vực đầu tư nước ngoài loại xuất siêu, đây là một sự mất cân đối nghiêm trọng, chứng tỏ các thành phần kinh tế trong nước kém sức cạnh tranh, không hiệu quả so với đầu tư nước ngoài. Như vậy có thể nhận định các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tận dụng tốt nguồn lực đầu vào trong nước, trong đó có tài nguyên thiên nhiên bản địa để tạo ra hàng hóa xuất khẩu lớn. Đối với các thành phần kinh tế trong nước điều đáng lo ngại là thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng hoạt động kém hiệu quả, quản trị yếu. Năm 2009 xét tỷ lệ đầu tư trong nước chiếm 46,5% trong đó Nhà nước chiếm tới 22%, kinh tế tư nhân chỉ chiếm 10,4% , điều đó cho thấy Chính phủ là Nhà đầu tư lớn trong nền kinh tế, chứa đựng nhiều rủi ro và hiệu quả không cao, cần phải cơ cấu lại thành phần kinh tế, tăng tỷ lệ đầu tư của tư nhân và các thành phần khác. Để tránh độc quyền và can thiệp sâu của thành phần kinh tế Nhà nước đối với khai thác và sử dụng tài nguyên, đòi hỏi phải đẩy mạnh áp dụng công cụ thị trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên như minh bạch hóa thông tin tài nguyên, tiến hành đấu giá và xóa bỏ dần cơ chế xin cho trong  cấp phép khai thác và sử dụng tài nguyên. Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong khai thác và sử dụng tài nguyên. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết khai thác và sử dụng các loại tài nguyên khác nhau nhằm tạo ra thế cạnh tranh bình đẳng và tăng nguồn thu tô tài nguyên vào ngân sách nhà nước.

Như vậy tái cấu trúc nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên chính là thay đổi cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế nhằm phát huy hiệu quả tốt nhất những ngành kinh tế khai thác và sử dụng tài nguyên hiệu quả, những vùng có ưu thế về tài nguyên và những thành phần kinh tế đầu tư hiệu quả, tiết kiệm trong khai thác và sử dụng tài nguyên. Đây chính là những nội dung bên trong nhằm chuyển đổi mô hình kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chuẩn bị cho nền kinh tế Việt nam bước sang phát triển ở giai đoạn hai, giai đoạn tăng trưởng hiệu quả.

2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

-         Chất lượng tăng trưởng gắn với khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

Xét ở khía cạnh đầu vào, chất lượng tăng trưởng gắn với khai thác và sử dụng tài nguyên chính là sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, chỉ khai thác, sử dụng tài nguyên đáp ứng nhu cầu thị trường đã được quy hoạch trong nội dung quy hoạch ngành và quy hoạch vùng. Khai thác tài nguyên phải chú trọng tới bảo vệ môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên. Chất lượng tăng trưởng cần được nhìn nhận ở hai khía cạnh là đảm bảo tốc độ tăng trưởng và đóng góp của các thành phần cấu thành tăng trưởng kinh tế (GDP).

+ Đảm bảo tốc độ tăng trưởng

Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng gắn với tài nguyên thiên nhiên có nghĩa là nguồn tài nguyên cung ứng cho tăng trưởng của nền kinh tế luôn luôn đảm bảo đủ nhu cầu, có dự trữ dồi dào và nhiều tiềm năng, nhất là các tài nguyên không có khả năng tài tạo như nước, đất, khoáng sản, dầu khí, đất hiếm và các dạng năng lượng khác. Thực tiễn thời gian vừa qua đối với cung ứng than cho tăng trưởng kinh tế, chúng ta đã không đáp ứng đủ nhu cầu cho tăng trưởng kinh tế, phải nhập khẩu từ nước ngoài đã chứng tỏ chất lượng tăng trưởng thấp.

+ Đóng góp của các thành phần cấu thành GDP

Về cơ bản đóng góp của các thành phần cấu thành GDP gồm tích lũy vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Gắn với tài nguyên thiên nhiên cơ bản có hai yếu tố là tích lũy vốn và TFP. Kể từ khi mở cửa đến nay, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu là từ tích lũy vốn, chiếm tới 43%-60% trong GDP, còn TFP chỉ chiếm 19%-38% trong GDP, thậm chí năm 2008 sụt giảm xuống -19,41% (GS.TS.Trần Thọ Đạt-ĐHKTQD). Các con số đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế giai đoạn vừa qua dựa vào phát triển theo chiều rộng là chính, khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô hoặc sơ chế, chất lượng tăng trưởng so với các nước khác không cao, nền kinh tế vẫn dự nhiều vào tài nguyên và sự ưu đãi của tự nhiên. Trong giai đoạn tới cần tăng tỷ lệ đóng góp của TFP, nghĩa là đổi mới công nghệ, tăng hàm lượng khoa học, tận dụng lợi thế, đầu tư vào chiều sâu đối với khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm tiết kiệm tối đa tài nguyên đầu vào trong sản xuất.

-         Về hiệu quả của nền kinh tế gắn với khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

Chúng ta đang bước sang giai đoạn hai của phát triển kinh tế, phù hợp với giai đoạn hai của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ở giai đoạn này mọi hoạt động kinh tế, thước đo quan trọng nhất chính là “Hiệu quả”. Đối với tài nguyên thiên nhiên, xét trong điều kiện thị trường cạnh tranh, đảm bảo tính hiệu quả là đáp ứng vừa đủ nhu cầu tài nguyên cho nền kinh tế thích ứng với mỗi giai đoạn phát triển. Như vậy công tác dự báo tài nguyên cho giai đoạn tiếp theo là hết sức quan trọng, mỗi ngành mỗi lĩnh vực cần có dự báo chính xác về nhu cầu tài nguyên cho ngành và lĩnh vực mình, từ đó tính toán cho toàn bộ nền kinh tế. Nhất là nhu cầu về sử dụng đất, nước và năng lượng. Kinh nghiệm cho thấy dự báo sai sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, chẳng hạn hiện nay đang tranh cãi có nên giữ nghiêm ngặt 3,8 triệu ha lúa hay không? Điều này chỉ có thể trả lời khi có dự báo chính xác về nhu cầu đất cho phát triển toàn bộ nền kinh tế ở giai đoạn hai (giai đoạn nâng cao hiệu quả), cũng như vậy đối với tài nguyên nước, năng lượng và các loại tài nguyên khác. Do đó cần đầu tư vào lĩnh vực hạch toán và dự báo tài nguyên cho nền kinh tế là hết sức quan trọng.

-         Về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

Theo Michael Porter, nền tảng của năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được quyết định bởi ba yếu tố cơ bản, trong đó nhân tố đầu tiên là “Các yếu tố lợi thế tự nhiên của quốc gia (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, quy mô)” (M.Porter 1990, 1998, 2008). Như vậy dựa vào cách nhìn nhận và quan điểm của Porter, các yếu tố lợi thế của tự nhiên như điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý của mỗi quốc gia không tác động đến năng suất, nhưng có thể hỗ trợ trực tiếp cho sự tạo ra thịnh vượng nếu chúng ta biết tận dụng các lợi thế đó. Các nhân tố này sẽ tạo ra một môi trường tổng thể cho một nền kinh tế và vị thế tương đối của nó so với các nền kinh tế khác trong khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong đó ưu thế của tài nguyên và vị trí địa lý chính chính là tô (rent) của tài nguyên và vị trí đó mang lại cho hoạt động kinh tế.

II. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng tài nguyên

1. Giảm áp lực đối với khai thác và sử dụng tài nguyên

1.1. Giảm áp lực tài nguyên từ tính chất đặc thù của tài nguyên

Về nguyên tắc vận hành của tài nguyên trong nền kinh tế chủ yếu là ở đầu vào của hệ thống, còn đầu ra dưới dạng sử dụng trực tiếp của người tiêu dùng hoặc tài nguyên là nhân tố tạo tiền đề cho sản sinh ra các tài nguyên khác. Khi nói đến giảm áp lực chúng ta cần xác định rõ giảm áp lực tài nguyên gì? Tính đặc thù của tài nguyên đó. Can thiệp vào công đoạn nào trong nền kinh tế, ở đầu vào hay đầu ra của hệ thống kinh tế. Muốn vậy trước hết ta xem xét phân loại tài nguyên thông qua sơ đồ dưới đây:

Sơ đồ 1: Phân loại tài nguyên Thiên nhiên

Từ sơ đồ trên, chúng ta có thể nhận thấy tài nguyên về cơ bản có 2 loại :

- Tài nguyên có khả năng tái tạo là những tài nguyên có thể tự duy trì hoặc bổ sung một cách liên tục khi được quản lý hợp lý. Tuy nhiên nếu sử dụng  không hợp lý, tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái tạo nữa. Ví dụ các giống loài thực vật, động vật bị giảm sút và tuyệt chủng. Loài Tê Giác 1 sừng của Việt Nam ở Cát Tiên là tài nguyên tái tạo, nhưng nay đã tuyệt chủng do con người.

- Tài nguyên không có khả năng tái tạo là những nguồn tài nguyên có một mức độ giới hạn nhất định trong tự nhiên, chúng ta chỉ được khai thác chúng ở dạng nguyên khai một lần, đối với loại tài nguyên này được chia thành ba nhóm:

+ Tài nguyên không có khả năng tái tạo nhưng tạo tiền đề cho tái tạo, ví dụ như đất, nước tự nhiên...., tài nguyên này khai thác và sử dụng cũng chỉ giới hạn ở một mức độ nhất định. Ví dụ tài nguyên đất bị giới hạn bởi diện tích, thời gian vừa qua ở nhiều địa phương chúng ta sử dụng không, lãng phí đất, nhất là những khu vực quy hoạch nhưng không đầu tư. Tương tự như vậy, tài nguyên nước là sự biểu hiện khan hiếm, nhất là về mùa khô, suy giảm nguồn nước do ô nhiễm.

+ Tài nguyên không có khả năng tái tạo nhưng có thể tái sử dụng, tái chế . Ví dụ như quặng kim loại, cát chế biến thủy tinh và các nguồn tài nguyên sản xuất vật liệu xây dựng khác.

+ Tài nguyên cạn kiệt, là những loại tài nguyên chỉ khai thác và sử dụng một lần và khi đã sử dụng chúng sẽ chuyển sang dạng khác. Ví dụ như than đá, dầu, khí đốt..., do tính chất cạn kiệt và nhu cầu lớn đầu vào của nền kinh tế, hiện nay loại tài nguyên này có tính cạnh tranh cao nhất giữa các quốc gia và khu vực trên thế giới.

Nếu giảm áp lực tài nguyên theo nguyên lý tái tạo và không tái tạo như cách phân loại trên thì chúng ta có thể nhận diện rõ đối với từng loại tài nguyên do tính chất tái tạo của chúng. Những tài nguyên không tái tạo và cạn kiệt phải được ưu tiên gìn giữ trước, điều này có phần nào đúng với cách ứng xử của một số quốc gia trên thế giới hiện nay, ví dụ đối với lĩnh vực khai thác dầu khí hay kim loại quý hiếm. Mới đây câu chuyện đất hiếm là một ví dụ điển hình ở Trung Quốc. Hay khai thác dầu khí ở Na Uy, với việc ngừng xuất khẩu đất hiếm của Trung Quốc đã buộc một số nước nhập khẩu nhiều loại tài nguyên này như Nhật Bản phải tìm đến các quốc gia khác. Khai thác dầu khí ở Na Uy, lãi ròng có được chỉ cho phép đầu tư trở lại cho các dự án phát triển, quốc gia hạn chế tối đa tiêu dùng nguồn tiền có được từ khai thác dầu. Đây là những bài học quý giá cho Việt Nam vì các loại tài nguyên này Việt nam đều có tiềm năng.

1.2. Giảm áp lực tài nguyên theo nguyên lý cân bằng vật chất

Nếu giảm áp lực tài nguyên theo nguyên lý cân bằng vật chất, cần phải nhìn nhận trong toàn bộ hệ thống vận hành của nền kinh tế, từ tài nguyên thiên nhiên đưa vào sản xuất ở đầu vào trong hệ thống vận hành của nền kinh tế, chúng di chuyển trong hệ thống kinh tế dưới dạng vật chất không bao giờ mất đi mà chỉ  có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác như sơ đồ mô phỏng dưới đây dựa trên nguyên lý cân bằng vật chất (Định lý bảo toàn vật chất năng lượng):

Sơ đồ 2: Cân bằng vật chất và quan hệ giữa kinh tế , tài nguyên và môi trường

Nguồn: Phiên bản từ Barry C. Field. Environmental Economics: an introduction. 1994, p.24

Cân bằng vật chất của nền kinh tế có thể viết dưới dạng: M = Rpd + Rcd

Hay M = G + Rp – (Rpr + Rcr)

Với mô hình này để giảm áp lực tài nguyên đầu vào cho nền kinh tế và góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên rõ ràng chúng ta có 3 phương án (i) Giảm (G), nghĩa là giảm hàng hóa sản xuất trong nền kinh tế, điều này không thể thực hiện được vì như vậy sẽ là suy giảm tăng trưởng kinh tế; (ii) Giảm (Rp), nghĩa là phải giảm chất thải sau sản xuất, điều này có khả năng thực hiện được nhưng phải đổi mới và cải tiến công nghệ sản xuất để sử dụng tiết kiệm tài nguyên và (iii) Tăng (Rpr + Rcr) , nghĩa là phải tăng tái sử dụng, tái chế chất thải sau sản xuất và sau tiêu dùng của nền kinh tế, cách làm này hiện nay phổ biến ở các nước có nền kinh tế phát triển chính là giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải (3R) . Ví dụ như Nhật bản, Đức, các nước Bắc Âu và các nước Bắc Mỹ. Ở Việt Nam, nếu chúng ta triển khai tốt chính sách 3R sẽ gián tiếp giảm áp lực đối với khai thác và sử dụng tài nguyên. Ví dụ việc tăng cường sử dụng hầm Biogas ở khu vực nông thôn và miền núi sẽ giảm tối đa chất đốt cho khu vực này và giảm áp lực chặt phá rừng làm chất đốt. Tăng cường phân loại chất thải rắn tại nguồn giúp cho tách được các nguồn thải có ích giúp cho việc tái sử dụng và tái chế, hạn chế nhu cầu tài nguyên thiên nhiên, giảm áp lực đầu vào của hệ thống kinh tế.

1.3 Giảm áp lực tài nguyên đặt trong bối cảnh vận hành của cơ chế kinh tế thị trường

Trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, để giảm áp lực tài nguyên rõ ràng là vấn đề không đơn giản và đặt ra nhiều thách thức cho nhà quản lý.

Về nguyên lý thị trường là có cầu tài nguyên sẽ xuất hiện cung tài nguyên, vấn đề là cung tài nguyên đó ở trong nước hay nhập khẩu. Nếu nhập khẩu thì đương nhiên chúng ta đã giảm được áp lực cung trong nước, chẳng hạn như thời gian vừa qua chúng ta đã phải nhập khẩu mặt hàng than và gỗ từ Indonesia để đáp ứng sản xuất trong  nước và góp phần tăng trưởng kinh tế. Cách quản lý này đương nhiên phải dùng công cụ thị trường để điều tiết. Công cụ thị trường chính là thuế, phí, trợ cấp, ưu đãi, ký quỹ, cấp cô ta khai thác..., các loại công cụ này không mang tính áp đặt nhiều, mềm dẻo nhưng rất hiệu quả, thông qua các công cụ đó, chúng ta có thể điều chỉnh giảm áp lực đối với tài nguyên nào nếu chúng ta thấy cần duy trì, còn khuyến khích khai thác và sử dụng tài nguyên nào, dùng các công cụ thị trường chúng ta cũng hoàn toàn có thể tực hiện được.

Vấn đề áp lực nhất của nước ta hiện nay là cấp phép khai thác khoáng sản, nguyên nhân do chúng ta phân cấp nhưng vẫn mang nặng kiểu quản lý cơ chế xin-cho mà chưa sử dụng công cụ thị trường. Vậy để đảm bảo đúng nguyên lý thị trường, tăng thu vào ngân sách tốt nhất là nên đấu giá mỏ theo đúng cơ chế thị trường và minh bạch hóa trong đấu giá khai thác khoáng sản.

Hiện nay Chính phủ đang trình sang Quốc Hội tăng thu thuế tài nguyên đối với một số loại tài nguyên quý hiếm như Vàng, thiếc, Bôxit..., so với mức thuế cũ đều cao hơn, còn so với thuế tài nguyên cùng loại các nước khác trong khu vực, tỷ lệ thu thuế của ta thấp hơn. Như vậy thuế là công cụ thị trường cơ bản để điều chỉnh giảm áp lực tài nguyên. Tuy nhiên cần lưu ý khi chúng ta tăng hay giảm thuế đều phải xem xét các cam kết của Việt Nam với khu vực và thế giới theo lộ trình đã tham gia WTO.

1.4 Giảm áp lực tài nguyên thông qua các rào cản kỹ thuật

Kinh nghiệm cho thấy, hiện nay trên thế giới, để giảm áp lực khai thác tài nguyên gây ra tổn hại môi trường hay bảo vệ tài nguyên nội địa, thường sử dụng các rào cản kỹ thuật, vấn đề này Việt Nam đã chịu nhiều thiệt thòi nhất là các sản phẩm tự nhiên liên quan đến tài nguyên tái tạo, chính vì vậy chúng ta cũng cần phải có những biện pháp đưa ra các rào cản kỹ thuật nhằm giảm áp lực khai thác tài nguyên. Chẳng hạn dùng rào cản môi trường để hạn chế khai thác khoáng sản thiếu kiểm soát như hiện nay.

1.5 Giảm áp lực tài nguyên thông qua đổi mới công nghệ trong khai thác, sử dụng và tái tạo tài nguyên

Trong các yếu tố cấu thành chất lượng tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào như đã phân tích ở trên đối với đóng góp của TFP, so với đầu tư còn rất hạn chế, trong TFP có yếu tố công nghệ. Chính vì vậy nếu chúng ta thực sự đầu tư cho công nghệ sẽ là yếu tố cơ bản đạt được mục tiêu giảm áp lực tài nguyên và nâng cao chất lượng tăng trưởng.

-         Đối với tài nguyên tái tạo, công nghệ đưa vào để nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm, đó chính là công nghệ sinh học. Kinh nghiệm từ Mỹ, Nhật Bản, Israel...và một số quốc gia phát triển khác đã đạt được thành tựu về lĩnh vực công nghệ này trong việc tăng sản lượng và năng suất đối với các nguồn tài nguyên tái tạo.

-         Đối với tài nguyên không tái tạo, đầu tư công nghệ sử dụng tiết kiệm tài nguyên nhằm kéo dài tuổi thọ của tài nguyên đó trong thiên nhiên. Muốn vậy công nghệ phải đạt mục tiêu tăng hàm lượng và giá trị sử dụng của tài nguyên. Công nghệ vật liệu thay thế sản xuất cấu thành sản phẩm, công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm giảm thiểu lượng tài nguyên đầu vào của hệ thống kinh tế. Chẳng hạn hiện nay sản xuất vỏ ô tô và nhiều linh kiện khác người ta đã thay thế dần sản xuất từ nguyên liệu kim loại bằng nguyên liệu hóa chất nhựa chất lượng cao.

2. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên

Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, chúng ta phải hiểu thế nào là “Hiệu quả tài nguyên”? Phân tích mô hình kinh tế vĩ mô cũng như vi mô, hiệu quả chính là điểm “tối ưu”, tại đó cung bằng cầu. Nếu vậy đối với sử dụng tài nguyên hiệu quả được hiểu tổng lượng tài nguyên có nhu cầu trong nền kinh tế sẽ được cung ứng vừa đủ, sử dụng hết không thừa và không thiếu xét trong bối cảnh thị trường cạnh tranh và minh bạch. Ngoài ra trong lĩnh vực tài nguyên khi xét tới hiệu quả sử dụng, không chỉ tính tới hiệu quả hiện tại hoạt động của nền kinh tế mà còn tính tới hiệu quả sử dụng tài nguyên trong tương lai (thế hệ mai sau), như vậy điểm “Tối ưu” sẽ có sự dịch chuyển so với khi không tính tới nhu cầu của thế hệ tương lai, lượng tài nguyên dự trữ sẽ tăng lên, tuổi thọ của trữ lượng được kéo dài hơn. Quan điểm này thường được đề cập nhiều đối với tài nguyên không tái tạo.

2.1 Nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên trong sản xuất

Nếu nhìn từ khía cạnh sản xuất, tài nguyên là yếu tố đầu vào, cấu thành trong giá thành sản phẩm, để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên rõ ràng phải giảm tối đa giá thành tài nguyên cho một đơn vị khối lượng đầu vào cùng loại. Nếu xét trong công thức:

Y = AF(L,K,H,N). (1)

Trong đó : + F() là một hàm biểu thị cách kết hợp các đầu vào để sản xuất ra sản lượng,

+ A là biến số phản ánh trình độ công nghệ sản xuất hiện có, khi công nghệ phát triển, A sẽ tăng và nền kinh tế sản xuất nhiều sản lượng hàng hóa hơn bất kỳ sự kết hợp đầu vào nào, kể cả tài nguyên hay lao động.

+ L biểu thị lượng lao động,

+ K là khối lượng tư bản hiện có,

+ H là khối lượng vốn nhân lực,

+ N là khối lượng tài nguyên thiên nhiên

Từ công thức (1) cho thấy tăng vai trò của A là quan trọng nhất, không chỉ tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên mà còn tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

Chúng ta cần phải giảm thiểu tối đa chi phí cho N, nghĩa là giá của một đơn vị tài nguyên thấp nhất. Vì lý do này, nhiều quốc gia trên thế giới đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm ở đâu có giá thành tài nguyên rẻ họ sẽ đầu tư. Ở Việt Nam đối với tài nguyên không tái tạo sản xuất xi măng là ví dụ điển hình, đối với tài nguyên tái tạo như các nhà máy chế biến và xuất khẩu hải sản.

2.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên trong tiêu dùng

Nếu trong sản xuất vai trò chính là doanh nghiệp thì trong tiêu dùng trọng tâm là hộ gia đình. Nhìn nhận từ góc độ hộ gia đình và mở rộng cho toàn nền kinh tế, tiêu dùng tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là tiêu dùng trực tiếp hoặc qua chế biến từ sản xuất đã trở thành hàng hóa. Như vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên trong tiêu dùng, tiêu chí cơ bản vẫn là chất lượng tốt nhất và giá cả cạnh tranh nhất. Ví dụ, tài nguyên không tái tạo như chất đốt sử dụng hộ gia đình là gas, trọng lượng bình gas như nhau nhưng cơ sở nào cung cấp giá cả thấp nhất sẽ được lựa chọn xét trong điều kiện thị trường cạnh tranh. Hay đối với tài nguyên tái tạo như cá ngừ đại dương hay mực tươi..., chất lượng như nhau những cơ sở cung cấp nào rẻ nhất sẽ được người tiêu dùng lựa chọn.

2.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên cho toàn bộ nền kinh tế

Nhìn từ khía cạnh toàn bộ nền kinh tế, để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên nhằm tăng chất lượng tăng trưởng, những nội dung sau đây cần chú trọng.

-         Nâng hiệu suất sử dụng tài nguyên trong toàn bộ nền kinh tế thông qua các biện pháp như: kinh tế, kỹ thuật, đổi mới thể chế quản lý theo hướng thị trường minh bạch và phát triển hạ tầng.

-         Hướng tới nền kinh tế tuần hoàn, tiết kiệm tài nguyên, nền kinh tế cac bon thấp như hiện nay đang tiếp cận của nhiều quốc gia trên thế giới. Triển khai tốt Chiến lược tăng trưởng xanh đã phê duyệt.

3. Khai thác lợi thế các nguồn tài nguyên thiên nhiên

Quan niệm cũ trước đây cho rằng nước ta thuộc loại giàu tài nguyên thiên nhiên và có “rừng vàng, biển bạc”, quan niệm này hiện nay khó được chấp nhận vì so với thế giới và những nước có ưu thế về công nghệ quan niệm đó không phù hợp. Tuy nhiên điều mà không ai có thể phủ nhận đó là Việt Nam có những ưu thế nhất định về vị trí địa lý, cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên tự nhiên, và như đã phân tích ở trên, tăng trưởng kinh tế từ khi mở cửa đến nay, cơ bản chúng ta dựa vào những lợi thế của thiên nhiên và các sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên. Chính vì vậy chúng ta cần khai thác lợi thế về thiên nhiên của nước ta để nâng cao chất lượng tăng trưởng và cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh lợi thế vị trí, đối với tài nguyên thiên nhiên được xác định trên cơ sở số lượng, chất lượng, hạ tầng khai thác vận chuyển, tính cạnh tranh cao và những tính chất đặc thù do thiên nhiên ban tặng. Kinh tế học đúc kết lợi thế thành một chỉ tiêu tổng hợp chính là tô tài nguyên (Rent) cao hay thấp.

3.1. Khai thác lợi thế vị trí địa lý

Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế và vị trí địa chính trị quan trọng trong khu vực và thế giới, chúng ta có thể khai thác phát triển giao thông hàng hải, nhất là hệ thống cảng biển và dịch vụ tàu biển, về lĩnh vực này nên học tập kinh nghiệm của Singapore. Phát triển hệ thống sân bay tầm cỡ khu vực và thế giới cũng là một lợi thế của vị trí địa lý có khả năng cạnh tranh cao. Hệ thông đường bộ cũng có nhiều ưu thế, trục Bắc Nam nối lục địa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, trục Đông –Tây nối Đông Bắc Thái lan, Bắc Cam Pu Chia, Lào và Tây Nam Trung Quốc ra biển Đông. Tuy nhiên bên cạnh những mặt thuận lợi, vị trí của nước ta thường chịu ảnh hưởng bất lợi của khí áp Tây Thái Bình Dương và Bão về mùa mưa, mỗi năm có khoảng 8-12 cơn bão.

3.2 Đối với tài nguyên tái tạo

Về tài nguyên tái tạo, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á,  Việt Nam có những ưu thế về những sản phẩm mang tính chất của loại khí hậu này, chính vì vậy chúng ta cần phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới ẩm gió mùa. Phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa toàn diện từ khâu sản xuất đến chế biến thành phẩm, đầu tư khoa học cho thâm canh trong nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp và ngư nghiệp nhằm  nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm hàng hóa chấp nhận cạnh tranh trên thị trường. Những sảm phẩm nổi trội của Việt Nam cần được phát huy như lúa gạo; Cá tra cá Basa và một số hải sản khác; Hạt điều hạt tiêu; Cà phê; cao su. Các loại hoa quả nhiệt đới như chuối, mít, xoài, vải thiều, cam...., trên cơ sở nhu cầu của thị trường.

Một số các sản phẩm tự nhiên của Việt Nam cũng rất có lợi thế như Sâm Ngọc Linh, Quế Trà Bồng...Chúng ta nên học cách làm của Hàn Quốc để quảng bá và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới.

3.3 Đối với tài nguyên không tái tạo

- Những tài nguyên tạo tiền đề tái tạo như đất và nước, cần đánh giá ưu thế của 2 loại tài nguyên này loại đất gì? Vùng nào? Sử dụng vào mục đích gì là hiệu quả nhất và cho ưu thế tốt nhất. Đối với nước cũng vậy cần đánh giá giá trị kinh tế của nước để xác định sử dụng mục đích gì là hiệu quả nhất để khai thác hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Với việc sử dụng 2 loại tài nguyên này sẽ góp phần tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội cần phải được tính toán đầy đủ.

- Những tài nguyên không tái tạo, trên cơ sở đánh giá trữ lượng, chất lượng của khoáng sản, xác định nhu cầu thị trường, tính chất khan hiếm của khoáng sản, hạ tầng khai thác... từ đó sẽ xác định được lợi thế của tài nguyên khoáng sản Việt Nam đối với thị trường thế giới và trong nước. Với những lợi thế này chắc chắn sẽ xác định được những tài nguyên của ta có tính vượt trội trong cạnh tranh tài nguyên cùng loại để đưa ra phương án khai thác và sử dụng hiệu quả.

3.4. Lợi thế về tài nguyên du lịch tự nhiên

Việt Nam là quốc gia có cảnh quan thiên nhiên đẹp, độc nhất vô nhị và có thể so sánh với thế giới như vịnh Hạ Long, động Phong nha-Kẻ Bàng. Ngoài ra cảnh quan ven biển, đồng bằng và miền núi cũng rất đa dạng có thể khai thác tốt cho du lịch, chúng ta cần phát huy ưu thế này. Xác định trong tương lai, khi xã hội phát triển nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên là một ưu thế nổi trội của Việt Nam để có định hướng và quy hoạch ngay từ bây giờ. Hiện nay ngành du lịch đã đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc gia, trong đó có vai trò đóng góp của tài nguyên du lịch tự nhiên.

3.5. Lợi thế về năng lượng tái tạo

Trước đây chúng ta xác định nước ta có lợi thế về năng lượng thủy điện, tuy nhiên đến nay loại năng lượng này đã khai thác gần tới hạn và cũng đã báo hiệu những rủi ro.Thời gian tới cần chuyển đổi sang năng lượng mặt trời, năng lượng gió là các loại năng lượng Việt Nam cũng có nhiều lợi thế. Tuy nhiên cần phải tính toán và quy hoạch chi tiết trước khi đưa vào khai thác và sử dụng. Hiện nay năng lượng gió đã khai thác ở Cà Mau và Ninh thuận, nhưng nếu so với giá điện Nhà nước vẫn phải có chính sách ưu đãi mới cạnh tranh được. Năng lượng mặt trời chủ yếu khai thác theo hình thức nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình là chính, cần có đánh giá và cơ chế khuyến khích, quy hoạch nguồn năng lượng này trong thời gian tới.

Kết luận

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách thực thi của Nhà nước nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng “chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu” gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, đòi hỏi phải thay đổi ngay trong cơ cấu của nền kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế hướng đến ưu tiên những ngành, vùng và thành phần kinh tế sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên. Mặt khác cần phải tìm ra các giải pháp nhằm giảm áp lực khai thác tài nguyên thiên nhiên như tái sử dụng tái chế chất thải, phát huy các lợi thế của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên mà Việt Nam có thế mạnh. Tăng đầu tư chiều sâu, đổi mới khoa học công nghệ nhằm tăng hàm lượng khoa học trong TFP đối với tăng trưởng kinh tế trong cấu trúc các thành phần cấu thành GDP.

 

PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE)


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.Dương Thu Bảo. “Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế và điều chỉnh kết cấu kinh tế”. Bài giảng trường Đảng TW Trung Quốc tháng 09-2011.

2. Ban chấp hành trung ương. Số 41-NQ/TW. “Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Hà Nội ngày 15-11-2004.

3. Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên)”. NXBCTQG. Hà Nội-2013.

4. Ba tuyên giáo trung ương. “Tài liệu phục vụ nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”. NXBCTQG. Hà Nội-2011.

5. Bộ kế hoạch và đầu tư. Văn phòng PTBV. “Báo cáo nghiên cứu, xây dựng Bộ Chỉ tiêu phát triển bền vững”. Hà Nội-2013.

6. Christian Ketels. Nguyễn Đình Cung. Nguyễn Thị Tuệ Anh. Đỗ Hồng Hạnh – CIEM “Báo cáo năng lực cạnh tranh 2010”.

7. Chính phủ. Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ “Về việc ban hành định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Viêt Nam)”. Ngày 17-08-2004.

8. Chính phủ. Quyết định số 1216/QĐ-TTg. Ngày 05/09/2012. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ “Về việc ban hành định hướng Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam. BCHTW Số 36-CT/TW “Chỉ thị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Ngày 25-06-1998.

10.  Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ IX”. NXBCTQG. Hà Nội-2001.

11.  Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ X”. NXBCTQG. Hà Nội-2009.

12.  PGS.TS. Trần Thọ Đạt. “Tăng trưởng kinh tế thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” (Sách chuyên khảo). NXBĐHKTQD-2010.

13.  N.GREGORY MANKIW. GS.Kinh tế học. Trường Đại học tổng hợp Harvard. “Nguyen lý kinh tế học. Principles of Economics”. Tập II. NXBTK. Hà Nội-2013.

14.  Quốc hội. “Luật thuế tài nguyên và văn bản hướng dẫn thi hành (tái bản có bổ sung)”. NXBCTQG-2011.

15.   GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên). “Kinh tế Việt nam năm 2001 kiềm chế lạm phát và ổn định phát triển”. NXBĐHKTQD-2012. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM). “ Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới (Sách tham khảo)”. Hà Nội-2013.

16.   China lowers GDP target to achieve quality economic growth. Biz China Wkly Issue No.36.

NỘI DUNG KHÁC

Giải pháp để giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với giá thị trường ở Việt Nam

1-12-2013

Kể từ năm 1986, với chính sách “mở cửa”,  kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ  mô hình quản lý “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” sang mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cùng với sự chuyển đổi này những chính sách quản lý đất đai cũng được điều chỉnh để phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Khai thác, chế biến khoáng sản cho hôm nay và cho mai sau - vấn đề lựa chọn khôn khéo và đánh đổi qua ví dụ sa khoáng titan ven biển miền Trung

2-12-2013

Việt Nam nằm ở vị trí giao nhau của 2 vành đai sinh khoáng: vành đai Tây Thái Bình Dương và vành đai Địa Trung Hải, vì vậy tài nguyên khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại và tương đối phong phú. Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.

Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

14-1-2014

Chiến lược tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012, để thực hiện chiến lược đó, một trong các nội dung quan trọng là huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng xanh đã xác định. Tuy nhiên huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với những yêu cầu của Chiến lược đã đề ra.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt nam và khả năng đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế.

1-4-2014

Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng. Việt  Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu-năng lượng đa dạng đầy đủ các chủng loại như than, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới mà chúng ta còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường.I.    Khái quát về nguồn nhiên liệu, năng lượng và khả năng khai thác của Viêt Nam.-    Nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta, trước hết phải kể đến đó là than, khai thác và sử dụng than ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, từ khi người Pháp đến nước ta cách đấy hàng trăm năm, mức độ khai thác, sử dụng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xét về trữ lượng, tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Vê trữ lượng và chủng loại than phân theo các cấp và của Việt Nam thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây.Bảng 1. Trữ lượng than phân theo các cấp và các chủng loại thanHạng mục    Trữ l¬ượng xác minh (TK-TD)    Phân chia trữ lượng đã xác minh theo cấp (1000 tấn) A+B+C    A+B    C 1    C 2    PTổng cộng      6 140 683    5 629 252    356 789    2 264 480    3 007 983    511 4311    Bể than QN     4 121 745    4121745    301335    1508643    2311767    0 Vùng nội địa-TKV     165 110    165110    55454    91901    17755    0 Các mỏ than địa phương      37 434    18478    0    10238    8240    18956 Vùng than ĐBSH     1 580 956    1088481    0    524871    563610    492475 Tổng Antraxit+ khác     5 905 245     5 393 814     356 789     2 135 653     2 901 372     511 4312    Than bùn     235 438    235 438    0    128 827    106 611    0Nguồn: Trung tâm Tư vấn mỏ và Công Nghiệp-TVN, 2008. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Về khả năng khai thác than, dựa trên cơ sở dự báo cho giai đoạn 2015-2030 trong quy hoạch phát triển ngành than theo số liệu bảng 2 dưới đây cho thấy:Bảng 2. Tổng hợp khả năng khai thác than đến năm 2030 Năm    2015    2020    2025    2030Sản lượng (triệu tấn)    55-58    60-65    66-70    Trên 75Nguồn: P3, số 60/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.-    Về dầu khí, cho đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%, chi tiết thể hiện cụ thể thông qua bảng số liệu số 3 dưới đây về trữ lượng đã được xác minh và chưa được xác minh.Bảng 3. Tổng hợp trữ lượng dầu khí đã xác minh và chưa xác minh.Danh mục    Tổng (tỷ tấn dầu quy đổi-TOE)Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí    3,8 - 4,2Trong đó: - Trữ lượng đã xác minh- Chưa xác minh    1,05 – 1,142,75 – 3,06Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Từ năm 2015-2025 khả năng khai thác được thể hiện thông qua bảng 4 dưới đây.Bảng 4. Quy hoạch khai thác dầu thô đến năm 2025 Năm    2015    2020    2025PA cơ sở (106 tấn)    20,0    20,7    21,7Trong đó nội địa (106 tấn)    17,0    16,3    16,2Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Sự sụt giảm về khai thác dầu thô sẽ phải thay thế và bù đắp vào các nguồn nhiên liệu năng lượng tiềm năng khác nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.-    Về Thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa.Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng chúng ta có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện nay các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và  700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác.-    Về năng lượng mặt trời, với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực nam bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…, một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường, mặt khác cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đén mức tới hạn thì nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn.-    Năng lượng sinh khối, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy chúng ta có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn, đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây tính toán tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, tuy nhiên mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình, trong tương lai đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam.-    Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB) như vậy nếu so với tiềm năng của thủy điện điền thì nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. Chúng ta đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra, thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện nếu không có trợ giá của Nhà nước.-    Năng lượng địa nhiệt, đây là nguồn năng lượng trong lòng đất, chúng ta cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung.-    Các dạng năng lượng khác, ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, từ kinh nghiệm khai thác các nguồn năng lượng khác đã có trên thế giới, ở Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dò hải lưu, băng cháy dưới đáy biển, chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn.II.    Tương quan kinh tế và năng lượng ở Việt Nam.Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030, trong đó đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự bảo đến năm 2030.Về kịch bản tăng trưởng kinh tế  tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư được thể hiện thông qua bảng 5 dưới đây.Bảng 5. Dự báo tăng trưởng GDP giai đoạn đến 2030Lĩnh vực    2011-2015    2016-2020    2021-2030P/A    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    CaoTăng trưởng GDP(%)    7,0    7,5    8,0    7,0    8,0    8,4    7,2    7,8    8,6Nông-lâm-thuỷ sản (%)    2,7    3,0    3,0    2,0    2,2    2,2    2,0    2,2    2,2CN-xây dựng(%)    7,5    8,4    9,0    7,5    8,6    9,3    7,4    8,1    9,1Dịch vụ (%)    8,0    8,2    8,7    8,0    9,0    9,3    8,0    8,6    9,2Nguồn: Nhóm nghiên cứu của Bộ KH&ĐT hỗ trợ lập TSĐ VII. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Như vậy từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông-lâm-thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp-xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuốngs còn 18,2% , sử dụng khí đốt tăng từ 1%lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030.Đối với sử dụng năng lượng dự báo cho các ngành, trên cơ sở tính toán và dự báo theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, kết quả đưa ra được thể hiện thông qua biểu đồ 1 dưới đây.Biểu đồ 1: Các lĩnh vực sử dụng năng lượng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ cho thấy, xét trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030 được các chuyên gia dự báo có một sự tăng đều thông qua biểu đồ 2 dưới đây.Biểu đồ 2. Tương quan kinh tế và NL, từ năm 2005 đến 2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ 2 cho thấy so sánh tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, từ năm 2025 đến năm 2030 khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm.III.Đề xuất giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó đối với ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kính tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản như sau.Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà chúng ta có ưu thế.Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng chúng ta không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, chúng ta nên nhập khẩu, chăng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập.Thứ ba, về lộ trình chúng ta buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy chúng ta sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra,Thứ tư, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo.Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen giống như văn hóa người Nhật. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ.Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả.Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, tuy nhiên chúng ta thực hiện theo định hướng chung của thế giới, chính vì vậy đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo.Kết luận.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030 chúng ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới chúng ta có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng chúng ta có thế mạnh.TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXBCTQG-Hà Nội 2011. 2.Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP). Dự án “tăng cường năng lực lồng ghép phát tiển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. Nghiên cứu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2011-2020. Báo cáo “Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH”. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ. 3.Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 4.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013. 5.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013.PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

6-4-2014

      Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng.

Đánh giá ảnh hưởng một số tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với khu vực ven biển thành phố Đà Nẵng

9-8-2015

Việt Nam có đới bờ biển dài hơn 3.200km với một chuỗi đô thị lớn, tập trung cư dân đông đúc, kinh tế phát triển đa ngành, nhưng rất dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu. Đối với khu vực bờ biển Trung Bộ trong những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan: bão không theo quy luật; mưa trái mùa; triều cường biên độ lớn… xuất hiện ngày càng nhiều về tần suất, càng mạnh về cường độ; có lúc vượt ngưỡng chịu tải của môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư, dẫn đến thảm họa môi trường, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các đô thị ven biển.

Sử dụng ảnh LANDSAT đa thời nghiên cứu diễn biến đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị

29-10-2015

Thành phố Đà Nẵng đang trong tiến trình xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường hướng tới hình ảnh một thành phố “thân thiện với môi trường”. Nhằm xây dựng cơ sở khoa học phục vụ công tác quy hoạch môi trường thành phố, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định sự phát triển và biến động không gian của đô thị Đà Nẵng từ năm 1990 đến năm 2015 sử dụng ảnh vệ tinh LANDSAT đa thời. Bằng phương pháp phân loại có kiểm định dựa vào bản đồ hiện trạng sử dụng đất của thành phố năm 2010, biến động không gian đô thị và các hợp phần của đô thị trong 6 quận nội thành qua thời gian đã được làm rõ.

Từ kinh nghiệm quốc tế đề xuất giải pháp chính sách khuyến khích thiết kế, chế tạo thiết bị chuyên dùng cho hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường

16-12-2024

 Điều tra cơ bản trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ thiết yếu được Chính phủ giao cho Bộ TN&MT, bao trùm các lĩnh vực quan trọng của ngành như đo đạc bản đồ, điều tra tài nguyên đất, nước, khoảng sản...

Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon của hệ sinh thái biển và đất ngập nước

16-12-2024

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (HST) tự nhiên, đặc biệt là HST rừng đã được nhiều tổ chức quốc tế và một số quốc gia triển khai, đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, hiện nay, có rất ít cơ chế, chương trình chi trả cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của HST tự nhiên. Kinh nghiệm xây dựng và triển khai các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for forest environmental services - PFES) là những ví dụ điển hình có thể tham khảo để xây dựng cơ chế, chương trình chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon đối với các HST tự nhiên, đặc biệt là HST biển và HST đất ngập nước (ĐNN) nội địa.

Nỗ lực ứng phó với thời tiết cực đoan ở Timor-Leste

16-12-2024

Timor-Leste, quốc đảo non trẻ ở Đông Nam Á, đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự tàn phá của cuộc khủng hoảng khí hậu. Để hỗ trợ khu vực này giảm thiểu tác động từ thời tiết khắc nghiệt, hàng loạt giải pháp đã được đưa ra với sự kết hợp giữa công nghệ, kiến thức cộng đồng và sự hỗ trợ của Liên hợp quốc.

Chính sách ưu đãi về tài chính trong phát triển khu công nghiệp sinh thái: Bài học kinh nghiệm từ ASEAN và hàm ý cho Việt Nam

17-12-2024

  Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là mô hình hướng tới nền kinh tế tuần hoàn (KTTH) và không phát thải, với mục tiêu tối ưu hóa sử dụng tài nguyên bằng cách tái chế chất thải từ quy trình sản xuất. Tại Việt Nam, các dự án thí điểm KCNST trong giai đoạn 2015-2023 đã đạt được một số kết quả khả quan nhưng còn đối mặt với những hạn chế về cơ chế tài chính.

Quản lý và bảo vệ môi trường đối với các công viên địa chất: Kinh nghiệm quốc tế và những gợi mở cho Việt Nam

18-12-2024

  Tại Việt Nam, khái niệm công viên địa chất đã được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp lý như Luật Khoáng sản 2018 và Luật Bảo vệ môi trường 2020. Mặc dù có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí cơ bản, việc thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển các CVĐC ở Việt Nam còn gặp nhiều thách thức.