ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH

Kinh nghiệm quốc tế trong công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường

Ngày đăng: 02 | 04 | 2013

Tài nguyên và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ sinh thái xác định, cũng có quan niệm cho rằng khi đề cập tới bảo vệ môi trường cũng có nghĩa bao hàm cả bảo vệ tài nguyên. Tuy nhiên khi nói tới tài nguyên thường gắn với hoạt động kinh tế, là yếu tố đầu vào của hệ thống kinh tế, chúng có thể đo đếm và hạch toán được trong sổ sách kế toán, còn môi trường bao gồm hệ thống tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quan con người ảnh hưởng tới đời sống và hoạt động của con người. Như vậy trong môi trường có cả tài nguyên và người ta thường sử dụng cụm từ “Môi trường thiên nhiên”.

 

Từ sơ đồ 1 cho thấy, yếu tố đầu vào R (Resource) tài nguyên từ môi trường tự nhiên và W (Waste) chất thải đầu ra của hệ thống kinh tế đưa vào môi trường.

Để bảo vệ tài nguyên và môi trường, trước hết phải bảo vệ môi trường thiên nhiên, vì vậy kinh nghiệm quốc tế cho thấy thường người ta đề cập tới cụm từ “Bảo vệ môi trường” là chính, còn đối với tài nguyên thường sử dụng cụm từ “Khai thác và sử dụng tiết kiệm tài nguyên”, xét về bản chất kinh tế, trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường, thường dùng cụm từ “Khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên”. Như vậy bảo vệ tài nguyên và môi trường như thế nào là tốt nhất cần phải xem xét những cách thức mà các quốc gia trên thế giới đã làm, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam làm cơ sở cho định hướng đúng trong chỉ đạo điều hành về lĩnh vực này.

I. Nhìn nhận trước đây

Để bảo vệ tài nguyên và môi trường, kinh nghiệm thế giới cho thấy phải nhìn nhận một cách khá toàn diện nhìn từ góc độ quản lý hệ sinh thái.

Ơ Mỹ từ cuối thế kỷ XIX người ta đã bắt đầu nhận thấy sự lãng phí và sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, một cách tiếp cận mới trong bảo vệ tài nguyên và môi trường được ra đời, tác giả đầu tiên phải kể đến là Theodore Roosevelt, ông đánh giá cao về “bảo tồn” cần phải được ưu tiên cao hơn trong hoạt động hành chính của mình, tiếp đó Gifford Pinchot, ông chủ đầu tiên của cơ quan dịch vụ rừng của Mỹ đã có một cách tiếp cận mới đối với tài nguyên thiên nhiên. Mục tiêu hướng tới của ông ta là đạo đức sử dụng dựa trên thuyết vị lợi nhằm đạt được mục tiêu “hàng hóa tốt nhất với số lượng lớn nhất cho thời gian dài nhất”. Đây gọi là đạo đức bảo tồn tài nguyên (resource conservation ecthic), với cách nhìn nhận này, nó đã hướng dẫn rất nhiều cho việc quản lý tài nguyên thiên nhiên trong nửa đầu thế kỷ XIX ở Mỹ. Theo Pinchot, bảo tồn cũng có nghĩa là khôn ngoan và cẩn trọng trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên . Ông cho rằng “Thực tế đầu tiên của sự bảo tồn là chứa đựng sự phát triển” và “nhiệm vụ đầu tiên của con người về khía cạnh vật chất là kiểm soát việc sử dụng trái đất và tất cả những gì có trên trái đất”. Với sự thúc đẩy của ông với tính hiệu quả và hợp lý trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên cho cả thế hệ hiện tại và tương lai đã dẫn đến khái niệm mới được sử dụng trong cơ quan quản lý lâm nghiệp và đất đai ở Mỹ. Sử dụng và kiểm soát bền vững là trọng tâm trong cách nhìn nhận của Pinchot từ thế kỷ XIX ở Mỹ.

Cũng trong thế kỷ XIX, một viễn cảnh nhìn nhận mới gọi là lãng mạn-đạo đức bảo tồn vượt trội (romantic-transcendental conservation ethic), trong cách nhìn nhận này cho rằng tài nguyên có những giá trị sử dụng khác, hơn cả những lợi ích mà con người thu được và trong thực tế cho thấy tài nguyên có những giá trị vốn có mang tính độc lập không phụ thuộc vào con người.

Một viễn cảnh thứ ba về quan điểm nhìn nhận của thế giới trong thế kỷ XX đối với bảo vệ tài nguyên và môi trường dựa trên cơ sở hệ sinh thái, đó là tiến hóa-đạo đức đất sinh thái (evolutionary-ecological land ethic), đã được giới thiệu bởi tác giả Aldo Leopold vào những năm thập kỷ 1930 và 1940 của thế kỷ XX. Ông cho rằng cùng với sự phát triển của hệ sinh thái và tiến bộ khoa học kỹ thuật của con người, thiên nhiên không đơn giản là sự thu thập các thành phần của chúng, một số được sử dụng, còn một số khác vứt bỏ dựa trên tính hữu ích của chúng đối với con người, thiên nhiên cũng không phải là ngôi chùa để thờ cúng và không được chạm tới. Leopold cho rằng thiên nhiên là sự cấu thành phức tạp của các thành phần kết nối với nhau, hệ thống chức năng của chúng là kết quả của tiến trình thay đổi trong dài hạn. Mỗi thành phần như là cấu trúc một bộ phận của cỗ máy mà chúng ta chưa hiểu hết, chẳng hạn như cơ chế đất cần sử dụng do con người, nhưng cấu trúc chủ yếu của chúng không nên thay đổi một cách cơ bản. Quan điểm này được ông tuyên bố một câu nói khá nổi tiếng giống như “Giữ từng bánh răng và bánh xe là sự phòng ngừa đầu tiên của người thợ sửa máy thông minh”.

Vào giữa những năm 1960-1970, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã có nhìn nhận sát thực hơn, quản lý tài nguyên thay đổi theo hướng bền vững, dựa trên tiếp cận mới gắn với khai thác trong môi trường như: Giải trí, bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng, hiệu ứng tích lũy và gía trị thẩm mỹ. Những vấn đề ô nhiễm không khí, nguồn nước, mất đa dạng sinh học đe dọa tới môi trường sống của con người được thế giới chú trọng hơn.

Đến những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, bảo vệ tài nguyên và môi trường tiến thêm một bước đó là quy định mới của thế giới về bảo tồn sinh vật như là một triết lý trong thực hiện quản lý hệ sinh thái. Người ta đã bắt đầu nhìn thấy những rối loạn của hệ thống tự nhiên, và đến những năm đầu thập kỷ 90 đã thay đổi cơ bản cách nhìn nhận trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, đối tượng quản lý chính là hệ sinh thái, nhằm hướng tới “Phát triển bền vững”, lần đầu tiên hội nghị thượng đỉnh thế giới 1992 đã đưa ra chủ đê “Môi trường và phát triển”.

II. Nhìn nhận hiện nay

- Một trong những cách nhìn nhận mới đáng lưu ý đó là theo công điện số 197 của phái đoàn thường trực CHXHCNVN tại Liên Hợp Quốc ngày 23/04/2012 gửi Bộ ngoại giao và Bộ Tài Nguyên Môi trường. Nhân ngày trái đất 22/4 và triển khai Nghị quyết 65/164 của đại Hội đồng (ĐHĐ) về hài hòa với thiên nhiên do Bolivia khởi xướng, Đại hội đồng LHQ đã tổ chức thảo luận chuyên đề “Hài hòa với thiên nhiên, những phát kiến khoa học về tác động của con người đối với hoạt động của hệ thống Trái đất”, trong đó đề cập tới cách nhìn nhận mới, “Trái đất không phải là của con người mà con người thuộc về Trái đất cùng với các sinh vật khác trong khí quyển, thủy quyển và địa quyển. Phải thay đổi mô hình phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản. Không thể có mô hình tăng trưởng mãi mãi mà không ảnh hưởng tới bền vững của thiên nhiên; Không thể giải quyết vấn đề “hài hòa với thiên nhiên” bằng các quy luật của thị trường tự do lấy lợi nhuận làm mục tiêu và dựa trên thúc đẩy tiêu dùng”. Mặt khác trong công điện cũng chỉ ra từ cách nhìn nhận của LHQ đối với các quốc gia “phải phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý, giám sát, điều tiết, đồng thời xây dựng nhận thức chung, thúc đẩy sự đóng góp của toàn xã hội”, bên cạnh đó trong nội dung công điện cũng đưa ra cảnh báo “Nhà nước phải hỗ trợ và có đầu tư thích đáng cho khoa học, chứ không phải dựa vào tư nhân. Đáng lưu ý cách nhìn nhận mới, với tuyên bố của phó tổng thư ký LHQ, đồng thời cũng là Tổng thư ký Hội nghị LHQ về phát triển bền vững đã diễn ra tháng 06/2012 (RiO+20) cho rằng “đã đến lúc phải nói lời tạm biệt với mô hình phát triển cũ của chúng ta dựa vào bóc lột tài nguyên không hiệu quả, lãng phí, gây hại cho phát triển bền vững của môi trường và xã hội”.

Từ năm 2010, chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã có những tiếp cận mới trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, đó là quản trị môi trường (Environmental Governance) và kinh tế xanh (Green Economy) nhằm thay đổi cách nhìn nhận và tiếp cận mới về tài nguyên và môi trường phù hợp với xu thế phát triển hiện nay trên quy mô toàn cầu.

- Về quản trị môi trường được hiểu  “Quản trị môi trường là sự tương tác đa cấp (địa phương, vùng, quốc gia, toàn cầu) giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong tiến trình xây dựng và thực hiện các chính sách về quản lý môi trường nhằm đạt được sự phát triển bền vững”, đã có nhiều quốc gia  như Anh (2004), Úc (2009), các nước Đông Á (2009)... áp dụng quản trị môi trường trong quá trình thực thi chính sách liên quan đến quản lý môi trường.

- Về kinh tế xanh: UNEP đã đưa ra khái niệm ban đầu cho rằng: “Nền kinh tế xanh là kết quả mang lại phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, nó có ý nghĩa giảm những rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái”. Từ khái niệm đó cho thấy, phát triển một nền kinh tế xanh thực chất là vì con người, đảm bảo phúc lợi cao nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro cho môi trường và hệ sinh thái, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Theo kết qủa nghiên cứu của các tác giả trong tài liệu “Hướng tới nền kinh tế xanh” do chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) công bố năm 2011, mô hình kịch bản đầu tư xanh với số vốn khoảng 2% GDP toàn cầu (Khoảng 1300 tỷ USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số (0,5% GDP) tương đương với số tiền 350 tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh vực sử dụng nhiều vốn tự nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nước sạch và thủy sản. Trong mô hình kinh tế vĩ mô, các tác giả cũng đã tính toán và chỉ ra rằng, xét trong dài hạn, đầu tư vào nền kinh tế xanh sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế và tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu.

+ Từ khởi xướng của UNEP, Trung Quốc là một trong những quốc gia tiếp cận sớm ý tưởng này để đưa vào hoạch định chính sách nhằm chuyển từ phương thức phát triển kinh tế kiểu tiêu hao nhiều tài nguyên sang phương thức phát triển kinh tế kiểu tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.

  • Một là, lấy việc ưu tiên tiết kiệm và hiệu quả làm gốc để làm nòng cốt cho việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân (KTQD) kiểu tiết kiệm tài nguyên toàn diện, nâng cao vị trí quan trọng của việc tiết kiệm tài nguyên trong chiến lược phát triển Kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, thêm một bước nữa tăng cường hướng dẫn về chính sách cho việc tiết kiệm tài nguyên, ra sức điều chỉnh và tối ưu hóa kết cấu ngành nghề, ra sức khai thác và phổ biến kỹ thuật tiết kiệm tài nguyên, loại bỏ công nghệ và thiết bị lạc hậu, tăng cường quản lý các khâu về sản xuất, vận chuyển, tiêu dùng tài nguyên.
  • Hai là, lấy việc ra sức phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế sản sinh lượng Carbon thấp làm con đường cơ bản xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân kiểu tiết kiệm tài nguyên.
  • Ba là, lấy việc tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm đất và sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên làm trọng điểm cho việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân kiểu tiết kiệm tài nguyên, cố gắng tiết kiệm nguồn năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm và sử dụng hợp lý tài nguyên đất, thúc đẩy sử dụng tổng hợp tài nguyên.
  • Bốn là, lấy việc bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh làm nhu cầu cơ bản cho việc xây dựng hệ thống KTQD kiểu tiết kiệm nguồn tài nguyên, một mặt phải điều chỉnh và cải thiện kết cấu tiêu dùng nguồn tài nguyên, nhất là kết cấu tiêu dùng nguồn năng lượng, cố gắng giảm thiểu tác động xấu của việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên đối với môi trường, nỗ lực thực hiện sự hòa hợp giữa tài nguyên và môi trường; Mặt khác, phải đảm bảo an ninh tài nguyên, xây dựng và hoàn thiện dự trữ chiến lược dầu mỏ thích ứng với sức mạnh của đất nước, tích cực quán triệt chiến lược “Bước ra ngoài”, thực hiện mục tiêu đa dạng hóa con đường nhập khẩu nguồn năng lượng, khai thác kỹ thuật thay thế và tiết kiệm dầu mỏ, đảm bảo sự cung cấp dầu khí, nắm lấy thời cơ để khai thác và sử dụng nguồn năng lượng.

+ Thực tiễn đã đầu tư cho kinh tế xanh cũng cho thấy, vào năm 2009 UNEP đã thống kê và tính toán Cộng đồng chấu Âu và Bắc Mỹ đã đầu tư vào xây dựng các tòa nhà xanh và tạo ra được khoảng 2-3,5 triệu việc làm, riêng Trung Quốc đầu tư vào lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo đã tạo ra 10 triệu việc làm và doanh thu khoảng 17 tỷ đô la Mỹ/năm. Đối với các nước đang phát triển, theo đánh giá của ngân hàng thế giới (WB), nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho kinh tế xanh như các ngành xây dựng, năng lượng, giao thông vận tải có thể lên tới 563 tỷ đô la Mỹ vào năm 2030 và 100 tỷ đô la Mỹ cho thích ứng với biến đổi khí hậu. Như vậy so với mức độ đầu tư toàn cầu, đầu tư cho kinh

tế xanh và thích ứng biến đổi khí hậu ở các nước đang phát triển chiếm khoảng 50% tổng nguồn vốn đầu tư vào kinh tế xanh của toàn cấu.

+ Ơ Mỹ, kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008 đang có một sự xem xét lại chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, áp dụng chiến lược “Tái công nghiệp hóa”. Tháng 11 năm 2009 tổng thống Obama đưa ra mô hình tăng trưởng của Mỹ phải chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững. Trong chiến lược “Tái công nghiệp hóa” cho giai đoạn 10 năm tới nhằm phát triển công nghệ mới dự kiến đầu tư 15.000.000 USD hỗ trợ cho các nguồn năng lượng mới, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà lãnh đạo sạch trong công nghệ. Hướng tiếp cận mới theo cách “Kinh tế các bon thấp”, giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Cách tiếp cận ở Mỹ luôn lấy tiêu chí hiệu quả Kinh tế để thực thi chính sách, động lực thị trường thúc đẩy đổi mới công nghệ. Thực thi bảo vệ môi trường có khoa học và kế hoạch rõ ràng chia theo giai đoạn, trước hết người dân phải hiểu, thứ đến phải có can thiệp khoa học và cuối cùng thực hiện theo chương trình kế hoạch đã có. Tuy nhiên tuỳ theo đặc trưng từng vùng có kế hoạch khác nhau, ví dụ vùng cần bảo vệ nguồn nước có chương trình riêng của lĩnh vực này, bảo vệ đất hay duy trì đa dạng sinh học có chương trình cụ thể thích hợp cho từng loại đất. Trong nông nghiệp, sản xuất sản phẩm hữu cơ và kết hợp nhiều loại sản phẩm khác nhau trong một trang trại sản xuất được chủ trang trại phát huy cao độ. Cây trồng vật nuôi được kết hợp và phù hợp với đặc điểm sinh thái của nơi sản xuất, duy trì chất lượng đất. Tại trang trại sản xuất nông nghiệp, xu hướng tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời khá phổ biến. Chủ trang trại luôn tính toán hiệu quả kinh tế của các phương án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ thông qua việc hoàn thiện sản phẩm từ khâu thu hoạch đến đóng gói, đưa trực tiếp sản phẩm tới các siêu thị để đến người tiêu dùng nhanh nhất, hạn chế chi phí qua trung gian, tăng lợi nhuận. Việc sử dụng hầm Biogas, trợ cấp cho năng lượng sạch được thực hiện ở các vùng sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi quy mô lớn. Cơ quan dịch vụ sản xuất nông trại- FSA (Farm Service Agency) khuyến khích trang trại không sử dụng hoá chất diệt côn trùng và các dịch vụ hỗ trợ khoa học kỹ thuật khác. Trong công nghiệp, vấn đề được chú trọng nhất là tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng thay thế nhằm hạn chế sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Để quyết định lựa chọn theo hướng nào, bài toán kinh tế được tính toán theo vận hành của cơ chế thị trường theo phương án trước mắt và dài hạn. Xu hướng sử dụng năng lượng mặt trời từ việc sản xuất ra nhiều tấm pin đã và đang được triển khai, hiện nay có khoảng 22 thành phố đã sản xuất và sử dụng, không chỉ giải quyết công ăn việc làm, mà còn tiết kiệm năng lượng, mang lại hiệu quả và tiếp cận theo hướng cac bon thấp.  Những nơi chịu nhiều rủi ro của thiên nhiên và con người như New Olean, sau cơn bão Cachina, nhiều vùng không có người quay lại sinh sống ở các ngôi nhà cũ. Chính quyền địa phương đã thiết lập lại quy hoạch khu dân cư mới với nguồn đóng góp vốn  của chính phủ, cộng đồng và các nhà tài trợ khác, quy hoạch mới tính tới ảnh hưởng của bão, lụt và phù hợp hơn với điều kiện sinh thái tự nhiên của vùng. Từ hướng tiếp cận kinh tế Cac bon thấp, đối với phát triển đô thị, những khu đô thị mới, chẳng hạn khu vực sân bay cũ nay không còn sử dụng ở gần thành phố Austin thuộc bang Taxes, được quy hoạch lại chuyển đổi sang phát triển khu dân cư sinh sống, một tổ chức phi lợi nhuận với sự tài trợ của Chính phủ và tham gia của nhiều doanh nghiệp, tiến hành quy hoạch, thiết kế các ngôi nhà và toàn bộ khu dân cư thân thiện môi trường, các ngôi nhà xanh được hình thành (Green houses). Những ngôi nhà đó so với các kiểu nhà trước đây sẽ tiết kiệm năng lượng nhiều hơn, sử dụng năng lượng mặt trời, mang lại lợi ích nhiều hơn cho chủ hộ sử dụng. Hệ thống hạ tầng đồng bộ từ đường sá, thu gom phân loại và xử lý rác, các công nghệ mới được đưa vào ngôi nhà, không gian xanh phù hợp. Khái niệm “Nhà không dây điện” đã xuất hiện. Xu hướng mới xây dựng nhà công sở cũng đã được thiết kế và xây dựng ở thành phố Austin, thuộc bang Texat, một ngôi nhà công sở được thiết kế theo dạng ngôi nhà xanh, tiết kiệm năng lượng, sử dụng được nước mưa thiên nhiên, các vật dụng trang trí tận dụng chất thải và nhiều sáng kiến khác được đưa vào là hướng tiếp cận mới đã được thực hiện ở Mỹ. Hệ thống giao thông, nhất là đối với các đường cao tốc quy hoạch giải phân cách xanh là yêu cầu bắt buộc. Mặc dù cách giải quyết ở Mỹ theo kiểu “Kinh tế Các bon thấp”, nhưng với cách tiếp cận đó cũng là nội dung hướng tới phát triển “Nền kinh tế xanh”.

+ Các nước Tây Âu và Nhật bản, xu hướng phát triển cũng hướng tới “Nền kinh tế sạch”, “Kinh tế Cac bon thấp”  và phát triển “Nền kinh tế xanh”, các nước này đã trải qua một thời kỳ dài của quá trình công nghiệp hóa và cũng đã phải trả giá cho suy giảm tài nguyên và chất lượng môi trường. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, xu hướng phát triển đã có sự thay đổi, quan điểm thân thiện với môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên thông qua chuyển đổi mô hình phát triển đầu tư vào khoa học công nghệ, xử lý ô nhiễm, giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng chất thải (3R). Hiện nay đang hướng tới lộ trình thực hiện và thúc đẩy các ngành sản xuất sạch và phát triển các ngành cac bon thấp mới hình thành, nằm trong hệ thống kinh tế toàn cầu của nhóm nước công nghiệp phát triển (OECD), Tây Âu ra sức thúc đẩy đưa các chỉ tiêu về cac bon thấp vào hệ thống quy định quốc tế, với sự ra đời của tiêu chuẩn chứng nhận quốc tế về “Dấu chân cac bon” đã mở màn cho quá trình này. Còn Nhật bản tích cực xu hướng giảm thiểu cac bon thông qua Nghị định thư Kyoto, thực hiện triệt để chiến lược 3R “Giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải” và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. EU dự kiến trước năm 2013 sẽ đầu tư 105.000.000.000 € để phát triển “nền kinh tế sạch”. Còn Nhật bản từ cuối năm 2009 phát động chiến lược tăng trưởng mới, tập trung vào hai ngành công nghiệp mới là ngành môi trường và năng lượng, ngành y tế, với việc đầu tư vào hai ngành này dự kiến đến năm 2020 tạo ra thị trường mới tương đương 1 triệu tỷ Yên. Ở Autralia, bảo vệ tài nguyên và môi cơ bản dựa trên đặc thù của hệ sinh thái, dựa trên tiếp cận biên và khả năng chịu đựng của hệ sinh thái để có phương án khai thác sử dụng, quy hoạch và bảo vệ hợp lý.

+ Nhóm các nước mới nổi lên nhờ quá trình công nghiệp hóa như Hàn quốc, Singapore. Từ những năm 80 của thế kỷ XX họ không phải trả giá nhiều cho môi trường nhờ tiếp nhận công nghệ mới của các nước công nghiệp phát triển và những bài học kinh nghiệm của các nước đó trước đây. Mô hình phát triển của các nước này ngay từ đầu đã chú trọng tới môi trường và tiết kiệm tài nguyên, chính vì vậy họ đã rút ngắn khoảng cách phát triển không chỉ đạt mục tiêu kinh tế mà chú trọng tới môi trường. Hiện nay các nước này tiếp tục phát triển theo xu hướng “Tăng trưởng xanh”, “Kinh tế cac bon thấp” và hướng tới nền kinh tế xanh.

+ Các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo và trình độ phát triển trung bình ở châu Á, châu Phi và châu mỹ La Tinh. Ở các nước này trình độ công nghệ thấp hơn các nước phát triển, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp, khai thác và xuất khẩu thô tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ, sẽ bị lôi kéo vào xu thế phát triển mới. Tuy nhiên theo nội hàm phát triển “Kinh tế xanh”, đây sẽ là cơ hội cho các nước này tham gia để khôi phục  nguồn tài nguyên tái tạo, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên và bảo vệ môi trường, tăng phúc lợi và giảm nghèo. Việc tiếp cận mô hình phát triển “kinh tế xanh” sẽ đặt ra nhiều thách thức, nhất là nguồn vốn đầu tư, công nghệ và năng lực thực thi. Để vượt qua được những thách thức đó, các nước đang phát triển không chỉ phải phát huy nội lực mà còn cần có sự trợ giúp của các nước phát triển, nhất là nguồn vốn, công nghệ và nâng cao năng lực thực thi.

Về lý luận và thực tiễn đã cho thấy, thế giới đang có những sự thay đổi mới trong định hướng phát triển, nhất là sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế từ năm 2008 đến nay, đó là cấu trúc lại nền kinh tế, hướng tới xây dựng một nền kinh tế xanh

III. Từ kinh nghiệm quốc tế, rút ra bài học cho Việt Nam trong bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Để bảo vệ tài nguyên và môi trường rút ra từ những bài học kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cần có những thay đổi trong cách tiếp cận mới sau đây.

- Thứ nhất, thay đổi cách nhìn nhận mới có tính tổng hợp, bảo vệ tài nguyên và môi trường phải dựa trên cơ sở nền tảng của hệ sinh thái, nghĩa là không quản lý đơn lẻ một thành phần nào mà tiếp cận dựa trên tính đặc thù của từng hệ sinh thái để đảm bảo sự liên kết và cân đối hài hòa của các thành phần tự nhiên trong hệ sinh thái vốn có của nó, không phá vỡ thành phần cấu trúc cũng như chức năng vốn có của hệ sinh thái. Một tiếp cận quản lý mới cần dựa trên bối cảnh mẫu của quản lý hệ sinh thái như sau:

Trong đó: A là khu vực quy định của nha quản lý hoặc quyền lực quản lý; B là khu vực nghĩa vụ xã hội trong phát triển kinh tế; C là khu vực ảnh hưởng; D là khu vực các bên đều có lợi (win-win-win partnerships).

- Thứ hai, thay đổi cách thức nhìn nhận trong quản lý đối với bảo vệ tài nguyên và môi trường so với trước đây giữa cách nhìn nhận quản lý truyền thống với cách nhìn nhận quản lý mới đối với hệ sinh thái thể hiện quan bảng so sánh sau đây.

Thứ ba, xem xét lại sự đề cao đối với con người trong hệ thống tự nhiên dẫn đến tàn phá thiên nhiên, phải coi con người như là thành phần quan trọng của tự nhiên để điều chỉnh hành vi của mình. Con người sống được và tồn tại được là nhờ vào thiên nhiên gồm các nguồn tài nguyên và môi trường tự nhiên. Thiên nhiên là cơ sở tiền đề cho sự sống và phát triển của con người.

- Thứ tư, từ bỏ phương thức phát triển kinh tế cũ của mô hình “Kinh tế nâu”, hướng tới chuyển đổi mô hình phát triển mới, theo một cấu trúc kinh tế mà hiện nay các nước đang tiếp cân, đó là “Kinh tế xanh”, không chỉ mang lại phúc lợi cho còn người mà phải duy trì và phát triển hệ sinh thái. Muốn vậy bên cạnh khai thác phải đầu tư trở lại cho tự nhiên để phục hồi hệ sinh thái. Đối với những tài nguyên không tái tạo nguồn lợi thu được cần gìn giữ và đầu tư cho phát triên, chẳng hạn như đầu tư cho vốn con người.

- Thứ năm, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài nguyên và môi trường cần có sự kết hợp hài hòa giữa các giải pháp quản lý gồm các giải pháp về điều hành và kiểm soát với các giải pháp kinh tế. Nên tảng của các giải pháp này là thay đổi nhận thức của con người, chú trọng tới đạo đức, khơi dậy cái “tâm” của con người đối với thiên nhiên. Ngoài ra cần phải lượng giá được tài sản của thiên nhiên để có sự so sánh giữa các phương án lựa chọn phục vụ cho thiết kế chính sách và lựa chọn trong bảo vệ tài nguyên và môi trường.

Kết luận

Trên cơ sở nhận thức kinh nghiệm quốc tế về bảo vệ tài nguyên và môi trường, với cách nhìn nhận trước đây từ thế kỷ XIX đến cách nhìn nhận mới hiện nay, thế giới cũng đã trải qua những thăng trầm trong bảo vệ tài nguyên và môi trường, từ đó rút ra những kinh nghiệm quý giá cho chúng ta. Những nước phát triển sau như Việt Nam nếu biết khắc phục những tồn tại mà các nước đi trước đã gặp phải, phát huy những kinh nghiệm tốt họ đã thành công, chúng ta sẽ rút ngắn khoảng cách phát triển, không chỉ có sự tăng trưởng kinh tế cao mà còn bảo vệ được tài nguyên và môi trường phù hợp với xu thế mới của thế kỷ XXI là phát triển bền vững.

 

PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.

Phó viện trưởng, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường.

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS. Dương Thu Bảo (2011). Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế và điều chỉnh kết cấu kinh tế. Bộ môn nghiên cứu Kinh tế học. Trường Đảng Trung ương Trung Quốc.

2. GS. Lương Bằng (2011). Lý thuyết tài chính công và cải cách thể chế tài chính công. Bộ môn giảng dạy và nghiên cứu Kinh tế học. Trường Đảng Trung ương Trung Quốc.

3. PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh (chủ biên) (2003), Kinh tế và Quản lý Môi trường, Nhà Xuất bản Thống kê.

4. Barry C. Field. Environmental Economics: an introduction. 1994, p.21

5. Corner, H.J and M.A. Moote.1999. The Politis of Ecosystem Management. Island Press, Washington, D.C

6.GS. Phan Duyệt (2011). Điều chỉnh và chuyển đổi Chiến lược Kinh tế đối ngoại của Trung Quốc thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính-tiền tệ. Viện nghiên cứu Chiến lược đối ngoại. Trường Đảng Trung ương Trung Quốc.

7. Garyk.Meffe; Lorry A.Neielsen; Richard L. Knight; Dennis A.Schenborn. Ecosystem Management. Adaptive Community-Based conservation. Getting a Grip on Ecosystem Management.

8.GS. Hàn Bảo Giang (2011). Thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính-tiền tệ và sự chuyển đổi mang tính Chiến lược về phương thức phát triển kinh tế. Phó chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế học. Trường Đảng Trung ương Trung Quốc.

9. Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường (tài liệu dịch của UNEP) (2011). Hướng tới nền kinh tế xanh, lộ trình cho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo. Báo cáo tổng hợp phục vụ các nhà hoạch định chính sách . Nhà xuất bản nông nghiệp.

NỘI DUNG KHÁC

Phương pháp luận về đánh giá tác động lên môi trường của việc thực thi chính sách

13-5-2013

Trong những năm gần đây, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, vấn đề lồng ghép các mục tiêu môi trường vào chính sách quản lý đang ngày càng được quan tâm. Việc đánh giá tác động đối với môi trường của các chính sách để đề ra các biện pháp hạn chế các tác động tiêu cực là rất quan trọng.

Nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên

6-11-2013

Tính đến nay, kể từ khi đổi mới (1986), Việt Nam đã mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhờ đó đã mang lại tăng trưởng kinh tế liên tục và có một sự tăng tiến vượt bậc, từ vị trí là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, nay đã bước vào ngưỡng của các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.

Giải pháp để giá đất do Nhà nước quy định phù hợp với giá thị trường ở Việt Nam

1-12-2013

Kể từ năm 1986, với chính sách “mở cửa”,  kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ  mô hình quản lý “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” sang mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cùng với sự chuyển đổi này những chính sách quản lý đất đai cũng được điều chỉnh để phù hợp với sự vận hành của thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Khai thác, chế biến khoáng sản cho hôm nay và cho mai sau - vấn đề lựa chọn khôn khéo và đánh đổi qua ví dụ sa khoáng titan ven biển miền Trung

2-12-2013

Việt Nam nằm ở vị trí giao nhau của 2 vành đai sinh khoáng: vành đai Tây Thái Bình Dương và vành đai Địa Trung Hải, vì vậy tài nguyên khoáng sản của Việt Nam đa dạng về chủng loại và tương đối phong phú. Theo kết quả điều tra đánh giá, thăm dò khoáng sản ở nước ta đến nay đã phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng với trên 60 loại khoáng sản khác nhau.

Xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh

14-1-2014

Chiến lược tăng trưởng xanh đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012, để thực hiện chiến lược đó, một trong các nội dung quan trọng là huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng xanh đã xác định. Tuy nhiên huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng xanh cần phải xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp đối với những yêu cầu của Chiến lược đã đề ra.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt nam và khả năng đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế.

1-4-2014

Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng. Việt  Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu-năng lượng đa dạng đầy đủ các chủng loại như than, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời và năng lượng sinh khối. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới mà chúng ta còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường.I.    Khái quát về nguồn nhiên liệu, năng lượng và khả năng khai thác của Viêt Nam.-    Nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta, trước hết phải kể đến đó là than, khai thác và sử dụng than ở Việt Nam đã có một lịch sử lâu đời, từ khi người Pháp đến nước ta cách đấy hàng trăm năm, mức độ khai thác, sử dụng và xuất khẩu ngày càng tăng. Xét về trữ lượng, tính đến 1/1/2005 tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Vê trữ lượng và chủng loại than phân theo các cấp và của Việt Nam thể hiện thông qua bảng 1 dưới đây.Bảng 1. Trữ lượng than phân theo các cấp và các chủng loại thanHạng mục    Trữ l¬ượng xác minh (TK-TD)    Phân chia trữ lượng đã xác minh theo cấp (1000 tấn) A+B+C    A+B    C 1    C 2    PTổng cộng      6 140 683    5 629 252    356 789    2 264 480    3 007 983    511 4311    Bể than QN     4 121 745    4121745    301335    1508643    2311767    0 Vùng nội địa-TKV     165 110    165110    55454    91901    17755    0 Các mỏ than địa phương      37 434    18478    0    10238    8240    18956 Vùng than ĐBSH     1 580 956    1088481    0    524871    563610    492475 Tổng Antraxit+ khác     5 905 245     5 393 814     356 789     2 135 653     2 901 372     511 4312    Than bùn     235 438    235 438    0    128 827    106 611    0Nguồn: Trung tâm Tư vấn mỏ và Công Nghiệp-TVN, 2008. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Về khả năng khai thác than, dựa trên cơ sở dự báo cho giai đoạn 2015-2030 trong quy hoạch phát triển ngành than theo số liệu bảng 2 dưới đây cho thấy:Bảng 2. Tổng hợp khả năng khai thác than đến năm 2030 Năm    2015    2020    2025    2030Sản lượng (triệu tấn)    55-58    60-65    66-70    Trên 75Nguồn: P3, số 60/QĐ-TTg, ngày 09/01/2012. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.-    Về dầu khí, cho đến nay Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%, chi tiết thể hiện cụ thể thông qua bảng số liệu số 3 dưới đây về trữ lượng đã được xác minh và chưa được xác minh.Bảng 3. Tổng hợp trữ lượng dầu khí đã xác minh và chưa xác minh.Danh mục    Tổng (tỷ tấn dầu quy đổi-TOE)Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí    3,8 - 4,2Trong đó: - Trữ lượng đã xác minh- Chưa xác minh    1,05 – 1,142,75 – 3,06Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. Từ năm 2015-2025 khả năng khai thác được thể hiện thông qua bảng 4 dưới đây.Bảng 4. Quy hoạch khai thác dầu thô đến năm 2025 Năm    2015    2020    2025PA cơ sở (106 tấn)    20,0    20,7    21,7Trong đó nội địa (106 tấn)    17,0    16,3    16,2Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Sự sụt giảm về khai thác dầu thô sẽ phải thay thế và bù đắp vào các nguồn nhiên liệu năng lượng tiềm năng khác nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với khí đốt, khả năng khai thác sẽ tăng, giai đoạn 2011-2015 sẽ đạt mức từ 10,7 tỷ m3 lên 19 tỷ m3.-    Về Thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế-kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết, như vậy năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa.Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng chúng ta có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện nay các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và  700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã và đang được khai thác.-    Về năng lượng mặt trời, với vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực nam bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…, một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường, mặt khác cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đén mức tới hạn thì nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn.-    Năng lượng sinh khối, nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy chúng ta có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn, đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. Theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây tính toán tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, tuy nhiên mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình, trong tương lai đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam.-    Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB) như vậy nếu so với tiềm năng của thủy điện điền thì nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. Chúng ta đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra, thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện nếu không có trợ giá của Nhà nước.-    Năng lượng địa nhiệt, đây là nguồn năng lượng trong lòng đất, chúng ta cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung.-    Các dạng năng lượng khác, ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, từ kinh nghiệm khai thác các nguồn năng lượng khác đã có trên thế giới, ở Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dò hải lưu, băng cháy dưới đáy biển, chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn.II.    Tương quan kinh tế và năng lượng ở Việt Nam.Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030, trong đó đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự bảo đến năm 2030.Về kịch bản tăng trưởng kinh tế  tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và đầu tư được thể hiện thông qua bảng 5 dưới đây.Bảng 5. Dự báo tăng trưởng GDP giai đoạn đến 2030Lĩnh vực    2011-2015    2016-2020    2021-2030P/A    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    Cao    Thấp    Cơ sở    CaoTăng trưởng GDP(%)    7,0    7,5    8,0    7,0    8,0    8,4    7,2    7,8    8,6Nông-lâm-thuỷ sản (%)    2,7    3,0    3,0    2,0    2,2    2,2    2,0    2,2    2,2CN-xây dựng(%)    7,5    8,4    9,0    7,5    8,6    9,3    7,4    8,1    9,1Dịch vụ (%)    8,0    8,2    8,7    8,0    9,0    9,3    8,0    8,6    9,2Nguồn: Nhóm nghiên cứu của Bộ KH&ĐT hỗ trợ lập TSĐ VII. MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Như vậy từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông-lâm-thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp-xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuốngs còn 18,2% , sử dụng khí đốt tăng từ 1%lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030.Đối với sử dụng năng lượng dự báo cho các ngành, trên cơ sở tính toán và dự báo theo kịch bản tăng trưởng kinh tế, kết quả đưa ra được thể hiện thông qua biểu đồ 1 dưới đây.Biểu đồ 1: Các lĩnh vực sử dụng năng lượng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ cho thấy, xét trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030 được các chuyên gia dự báo có một sự tăng đều thông qua biểu đồ 2 dưới đây.Biểu đồ 2. Tương quan kinh tế và NL, từ năm 2005 đến 2030 Nguồn: MPI, UNDP. Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ.Từ biểu đồ 2 cho thấy so sánh tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, từ năm 2025 đến năm 2030 khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm.III.Đề xuất giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”; Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó đối với ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kính tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản như sau.Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà chúng ta có ưu thế.Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng chúng ta không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, chúng ta nên nhập khẩu, chăng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập.Thứ ba, về lộ trình chúng ta buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy chúng ta sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra,Thứ tư, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo.Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen giống như văn hóa người Nhật. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ.Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả.Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, tuy nhiên chúng ta thực hiện theo định hướng chung của thế giới, chính vì vậy đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo.Kết luận.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030 chúng ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, chúng ta cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới chúng ta có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng chúng ta có thế mạnh.TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Ban tuyên giáo trung ương. “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng” (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXBCTQG-Hà Nội 2011. 2.Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI). Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP). Dự án “tăng cường năng lực lồng ghép phát tiển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. Nghiên cứu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực năng lượng giai đoạn 2011-2020. Báo cáo “Nghiên cứu, xây dựng các mục tiêu định lượng giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng Việt Nam, giai đoạn 2013-2030. Hỗ trợ xây dựng, thực hiện Chiến lược Quốc gia về TĂNG TRƯỞNG XANH”. Số đăng ký ĐKXB: 1287-2013/CXB/06-632/BĐ. 3.Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 4.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013. 5.Đảng Cộng Sản Việt Nam “Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành trung ương khóa XI”. Văn phòng trung ương Đảng. Hà Nội - 2013.PGS.TS.Nguyễn Thế Chinh.Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường. Bộ tài nguyên và môi trường.

Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

6-4-2014

      Đặt vấn đề.Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, quốc gia nào giàu có về nguồn tài nguyên này là cơ sở tiền đề tốt nhất cho đáp ứng đầu vào của hệ thống kinh tế, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về chính trị và an ninh quốc phòng.

Đánh giá ảnh hưởng một số tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với khu vực ven biển thành phố Đà Nẵng

9-8-2015

Việt Nam có đới bờ biển dài hơn 3.200km với một chuỗi đô thị lớn, tập trung cư dân đông đúc, kinh tế phát triển đa ngành, nhưng rất dễ bị tổn thương trước tác động do biến đổi khí hậu. Đối với khu vực bờ biển Trung Bộ trong những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan: bão không theo quy luật; mưa trái mùa; triều cường biên độ lớn… xuất hiện ngày càng nhiều về tần suất, càng mạnh về cường độ; có lúc vượt ngưỡng chịu tải của môi trường tự nhiên và cộng đồng dân cư, dẫn đến thảm họa môi trường, đã gây ra những tổn thất nặng nề cho các đô thị ven biển.

Sử dụng ảnh LANDSAT đa thời nghiên cứu diễn biến đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị

29-10-2015

Thành phố Đà Nẵng đang trong tiến trình xây dựng quy hoạch bảo vệ môi trường hướng tới hình ảnh một thành phố “thân thiện với môi trường”. Nhằm xây dựng cơ sở khoa học phục vụ công tác quy hoạch môi trường thành phố, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định sự phát triển và biến động không gian của đô thị Đà Nẵng từ năm 1990 đến năm 2015 sử dụng ảnh vệ tinh LANDSAT đa thời. Bằng phương pháp phân loại có kiểm định dựa vào bản đồ hiện trạng sử dụng đất của thành phố năm 2010, biến động không gian đô thị và các hợp phần của đô thị trong 6 quận nội thành qua thời gian đã được làm rõ.

Từ kinh nghiệm quốc tế đề xuất giải pháp chính sách khuyến khích thiết kế, chế tạo thiết bị chuyên dùng cho hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường

16-12-2024

 Điều tra cơ bản trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ thiết yếu được Chính phủ giao cho Bộ TN&MT, bao trùm các lĩnh vực quan trọng của ngành như đo đạc bản đồ, điều tra tài nguyên đất, nước, khoảng sản...

Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon của hệ sinh thái biển và đất ngập nước

16-12-2024

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (HST) tự nhiên, đặc biệt là HST rừng đã được nhiều tổ chức quốc tế và một số quốc gia triển khai, đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, hiện nay, có rất ít cơ chế, chương trình chi trả cho dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon của HST tự nhiên. Kinh nghiệm xây dựng và triển khai các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (Payment for forest environmental services - PFES) là những ví dụ điển hình có thể tham khảo để xây dựng cơ chế, chương trình chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu giữ các-bon đối với các HST tự nhiên, đặc biệt là HST biển và HST đất ngập nước (ĐNN) nội địa.

Nỗ lực ứng phó với thời tiết cực đoan ở Timor-Leste

16-12-2024

Timor-Leste, quốc đảo non trẻ ở Đông Nam Á, đặc biệt dễ bị tổn thương trước sự tàn phá của cuộc khủng hoảng khí hậu. Để hỗ trợ khu vực này giảm thiểu tác động từ thời tiết khắc nghiệt, hàng loạt giải pháp đã được đưa ra với sự kết hợp giữa công nghệ, kiến thức cộng đồng và sự hỗ trợ của Liên hợp quốc.