Trong khu vực ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN ban hành Khung KTTH năm 2021 với tầm nhìn dài hạn về KTTH dựa trên các sáng kiến hiện có và xác định các trọng tâm ưu tiên để đẩy nhanh tiến trình hiện thực hóa nền KTTH trong toàn khối ASEAN. Cùng với đó, các Hiệp định, Thỏa thuận quốc tế, bao gồm các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...đòi hỏi cộng đồng quốc tế và các quốc gia thành viên cam kết về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phó Viện trưởng Mai Thanh Dung phát biểu khai mạc tại Hội thảo
Ông Kubo Yoshimoto - Phó trưởng đại diện Văn phòng JICA Việt Nam
Theo đó, KTTH không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. Trong KTTH, quản lý chất thải được xem là trung tâm và tư duy xem chất thải là tài nguyên được tiến hành ngay từ khi thiết kế các sản phẩm, dịch vụ, chu trình sản xuất, kinh doanh. Thông qua đó, KTTH giúp giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, hạn chế chất thải ra môi trường, nhưng vẫn thúc đẩy phát triển kinh tế. So với kinh tế tuyến tính truyền thống, KTTH mang lại nhiều lợi ích đối với quốc gia, cộng đồng và doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, phát triển KTTH đã được xác định là một trong những mô hình kinh tế ưu tiên để thực hiện định hướng quản lý chất thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu” trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Theo đó, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045 đã khẳng định “khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”. Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã có một Điều riêng (Điều 142) quy định về KTTH. Trong đó, xác định KTTH là “mô hình kinh tế mà trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm thiểu khai thác nguyên vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và loại bỏ các tác động tiêu cực tới môi trường”. Bên cạnh đó, rất nhiều Điều, khoản khác có vai trò thúc đẩy thực hiện KTTH, như: phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn (Điều 75), tính giá thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên khối lượng hoặc thể tích (Điều 79); trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và nhập khẩu – EPR (Điều 54, Điều 55); tái chế, tái sử dụng chất thải, phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh...
Quang cảnh Hội thảo
Mặc dù so với các quốc gia trong khu vực ASEAN, Việt Nam đang được xem là một trong những quốc gia có hành động mạnh mẽ nhằm thể chế hóa và thúc đẩy áp dụng KTTH vào thực tiễn. Tuy nhiên, KTTH là vấn đề mới, để thực hiện được tiến trình chuyển đổi một cách toàn diện đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các chính phủ, các tổ chức, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, người dân. Việc cụ thể hóa nhiệm vụ xây dựng lộ trình thực hiện KTTH trong Luật Bảo vệ môi trường, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH.
Kể từ năm 2019 đến nay - khi Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường được giao là đầu mối của Bộ nghiên cứu các luận cứ khoa học, thực tiễn trong và ngoài nước để đề xuất, tư vấn cho lãnh đạo bộ các nội dung về KTTH trong các Văn kiện, chính sách, pháp luật có liên quan, nhờ sự hỗ trợ rất tích cực của các tổ chức quốc tế (như UNDP, JICA, PE, WWF, HFS, ERIA...), sự tham gia và đóng góp hết sức trách nhiệm của các nhà khoa học trong nước, quốc tế, các hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, vấn đề KTTH dần được sáng tỏ và được thể chế hóa rõ ràng hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Thay mặt cho Viện, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đối với các tổ chức, cá nhân đã đồng hành cùng viện trong thời gian qua. Cảm ơn sự hỗ trợ của tổ chức JICA và các chuyên gia từ Nhật bản đã đồng hành chia sẻ kinh nghiệm, giúp tính toán và đề xuất lựa chọn các ngành, lĩnh vực trọng tâm của Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Ông Lại Văn Mạnh - Trưởng Ban Kinh tế tài nguyên và môi trường thuộc Viện trình bày tại Hội thảo
Nhờ sự hỗ trợ và làm việc hết sức trách nhiệm đó, đến nay Viện đã dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH với đầy đủ các nội dung, khá tương đồng với xu hướng quốc tế, Kế hoạch của ASEAN và những vấn đề cấp bách ở trong nước. Dự thảo kế hoạch đã đề xuất 05 nhóm quan điểm, các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể phân kỳ theo 02 giai đoạn đến 2025 và đến 2030, 16 chỉ tiêu cụ thể; 05 chủ đề, 15 nhóm nhiệm vụ và 45 hoạt động gồm: (i) Nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng và phát triển các thực hành tốt về thực hiện KTTH; (ii) Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện KTTH; (iii) Hỗ trợ thúc đẩy áp dụng KTTH trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng; (iv) Quản lý chất thải để thực hiện KTTH; (v) tăng cường liên kết, hợp tác, giám sát, đánh giá thực hiện KTTH.


Các đại biểu tham gia góp ý tại Hội thảo
Để đạt được mục tiêu chung là "Hình thành hệ thống cơ cấu sản xuất, tiêu dùng bền vững, sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa nguyên liệu, vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế chất thải phát sinh và giảm tác động xấu đến môi trường; phát triển mạnh các mô hình sản xuất, kinh doanh áp dụng KTTH; phát triển các thực hành tốt, tạo dựng văn hóa bền vững trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, tiến tới hình thành xã hội tuần hoàn vật chất“ đòi hỏi Việt Nam phải giải quyết nhiều thách thức về thể chế, hạ tầng, công nghệ và văn hóa để mỗi người dân, doanh nghiệp phải thực sự xem chất thải là tài nguyên, sẵn sàng nói không với việc sản xuất, sử dụng các sản phẩm gây hại cho môi trường.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo
Nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của KTTH trong công tác quản lý chất thải, Việt Nam đã và đang nỗ lực đưa KTTH vào định hướng chính sách, văn bản pháp luật dưới sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế và sự vào cuộc của các Viện nghiên cứu, trường Đại học. Tuy nhiên, để thúc đẩy quản lý chất thải hướng tới KTTH tại Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực của tất cả các bên.
Trung tâm TVĐT&DVTN&MT