TIN TỨC-SỰ KIỆN

Chính thức hiện thực hóa nhiều chính sách đất đai

Ngày đăng: 05 | 08 | 2024

Ngày 1/8/2024 - Luật Đất đai chính thức có hiệu lực. Hiệu lực của Luật Đất đai được đẩy sớm hơn so với dự định 5 tháng nhằm nhanh chóng hiện thực hóa các chủ trương, chính sách mới, tạo ra đột phá trong quản lý đất đai. Đột phá ấy nằm việc đổi mới toàn diện nhiều quy định, từ bồi thường hỗ trợ, tái định cư đến định giá đất; từ phát huy tiềm năng đất nông nghiệp đến tận dụng lợi thế các loạt đất kết hợp; từ thông thoáng cải cách hành chính đến hài hòa lợi ích giữa những chủ thể sử dụng đất…* Quyền lợi của người bị thu hồi đất được đảm bảoThể chế hóa chủ chương của Đảng tại Nghị quyết 18, Luật Đất đai 2024 đã kế thừa các quy định đã được thực tiễn chứng minh là phù hợp đồng thời sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới bảo vệ tốt hơn quyền hợp pháp của người dân, đặc biệt trong trường hợp người bị thu hồi đất, góp phần hạn chế và giải quyết tốt hơn khiếu kiện về đất đai, như đa dạng hình thức bồi thường về đất, quy định thêm nhiều khoản hỗ trợ cho người bị thu hồi đất.Cụ thể, Luật quy định nguyên tắc bồi thường theo hướng đa dạng các hình thức bồi thường về đất, hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích với đất bị thu hồi hoặc bằng tiền, bằng đất khác hoặc bằng nhà ở phù hợp với nhu cầu của người có đất bị thu hồi và quỹ đất của từng địa phương.

Bên cạnh đó, Luật cũng cụ thể hóa nguyên tắc “có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” thông qua quy định tiêu chí khu tái định cư về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, địa điểm thực hiện tái định cư…. Khu tái định cư có thể bố trí cho một hoặc nhiều dự án. Khi Nhà nước thu hồi đất mà phần diện tích còn lại của thửa đất sau khi thu hồi nhỏ hơn diện tích tối thiểu, nếu người sử dụng đất đồng ý thu hồi đất thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, quản lý diện tích đất này theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, quy định cụ thể và mở rộng về thành phần Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định với sự tham gia của đại diện Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đại diện của người sử dụng đất có đất bị thu hồi…để đảm bảo sự khách quan, minh bạch, sự tham gia của các bên liên quan trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Ngoài ra, quan tâm đến đối tượng chính sách xã hội, đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp; các bước thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất đảm bảo nguyên tắc có sự tham gia của người dân ở các giai đoạn, đảm bảo nguyên tắc người có đất bị thu hồi được bồi thường, tái định cư trước khi thu hồi đất…. để người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống bằng hoặc tốt hơn. Luật cũng đã quan tâm để chủ sở hữu tài sản mà không đồng thời là chủ sử dụng đất, người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất được biết khi Nhà nước thu hồi đất.

Để hướng dẫn cụ thể những quy định này, ngày 15/7/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2024/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Theo đó, Nghị định số 88 quy định việc bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 98, khoản 1 Điều 99 của Luật Đất đai như sau: Giá đất tính tiền sử dụng đất khi bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi cho hộ gia đình, cá nhân, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng đất ở, đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam là giá đất được xác định theo bảng giá đất tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; trường hợp bồi thường bằng cho thuê đất thu tiền thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê thì giá đất tính tiền thuê đất là giá đất cụ thể do UBND cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi cho tổ chức kinh tế có đất ở thu hồi là giá đất cụ thể do UBND cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Nghị định cũng quy định, người có đất thu hồi được bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở mà có chênh lệch giá trị giữa tiền bồi thường, hỗ trợ về đất với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất khác hoặc tiền mua nhà ở thì xử lý như sau: Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất lớn hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc tiền mua nhà ở thì người có đất thu hồi được nhận phần chênh lệch; Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất nhỏ hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc tiền mua nhà ở thì người có đất thu hồi phải nộp phần chênh lệch.

UBND cấp tỉnh căn cứ quỹ đất, quỹ nhà và tình hình thực tế tại địa phương quy định tỷ lệ quy đổi, điều kiện bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở để bồi thường cho người có đất thu hồi.

Về tái định cư, khoản 8 Điều 111 Luật Đất đai quy định, người có đất ở thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở và được bồi thường bằng giao đất ở hoặc nhà ở tái định cư nhưng tiền bồi thường về đất ở không đủ so với giá trị của một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để được giao một suất tái định cư tối thiểu.

Nghị định này cũng hướng dẫn, trường hợp hộ gia đình, cá nhân, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài đủ điều kiện được hỗ trợ tái định cư theo quy định trên mà có nhu cầu tự lo chỗ ở thì ngoài việc được bồi thường về đất bằng tiền còn được nhận tiền hỗ trợ để tự lo chỗ ở.

UBND cấp tỉnh căn cứ quy mô diện tích đất ở thu hồi, số nhân khẩu của hộ gia đình và điều kiện cụ thể tại địa phương quy định mức hỗ trợ…

quy dat 1722519017883898779786
Luật Đất đai có nhiều chính sách quản lý mới

Đổi mới giá đất – khai thác lợi ích kinh tế từ đất đai theo cơ chế thị trường

Một trong những đổi mới quan trọng của Luật Đất đai 2024 là về nội dung tài chính, giá đất. Thực tế đây là một trong những nội dung quan trọng bởi sự ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và quyết định đến việc khai thác những lợi ích kinh tế từ đất đai theo cơ chế thị trường. Do đó, Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung thay thế nhiều quy định về giá đất còn hạn chế, bất cập trong Luật Đất đai năm 2013 với mục tiêu hướng đến khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai cho phát triển bền vững.

Để hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai, cơ chế xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường, các cơ chế kiểm tra, giám sát của Trung ương và Hội đồng nhân dân trong việc xây dựng bảng giá đất, Luật Đất đai 2024 đã bãi bỏ quy định về khung giá đất của Chính phủ; quy định cụ thể nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá đất; quy định bảng giá đất được xây dựng hằng năm và bảng giá đất lần đầu được công bố và áp dụng từ ngày 01/01/2026, được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung bảng giá đất từ ngày 01/01 của năm tiếp theo; việc xây dựng bảng giá đất theo vùng giá trị, thửa đất chuẩn đối với khu vực có bản đồ địa chính số và cơ sở dữ liệu giá đất.

Bên cạnh đó, Luật quy định cụ thể thời điểm xác định giá đất, thời điểm tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với từng trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, chuyển hình thức sử dụng đất điều chỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất mà làm thay đổi diện tích, mục đích sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất. Đồng thời, quy định rõ Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền phải  ban hành quyết định giá đất cụ thể trong thời gian không quá 180 ngày kể từ thời điểm xác định giá đất đối với các trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh thời hạn sử dụng đất, chuyển hình thức sử dụng đất, điều chỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, điều chỉnh quy hoạch chi tiết; Đối với trường hợp áp dụng giá đất trong bảng giá đất để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền phải ghi giá đất trong quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh thời hạn sử dụng đất, chuyển hình thức sử dụng đất.

Đồng thời, bổ sung quy định tiền thuê đất hằng năm được áp dụng ổn định cho chu kỳ 05 năm tính từ thời điểm Nhà nước quyết định cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất gắn với việc chuyển sang hình thức Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm. Tiền thuê đất cho chu kỳ tiếp theo được tính căn cứ bảng giá đất của năm xác định tiền thuê đất tiếp theo. Trường hợp tiền thuê đất tăng so với chu kỳ trước thì tiền thuê đất phải nộp được điều chỉnh nhưng không quá tỷ lệ do Chính phủ quy định cho từng giai đoạn. Tỷ lệ điều chỉnh do Chính phủ quy định cho từng giai đoạn không quá tổng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hằng năm cả nước của giai đoạn 05 năm trước đó.

Đặc biệt phân cấp thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giá đất cụ thể đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh thời hạn sử dụng đất, xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất, cho thuê đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết, thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Luật cũng quy định cụ thể các phương pháp định giá đất, bao gồm: phương pháp so sánh, phương pháp thu nhập, phương pháp thặng dư và phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất, đồng thời giao Chính phủ quy định phương pháp định giá đất khác 04 phương pháp trên sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quy định trường hợp, điều kiện áp dụng phương pháp định giá đất; trường hợp áp dụng các phương pháp định giá đất để xác định giá đất cụ thể mà có kết quả thấp hơn giá đất trong Bảng giá đất thì sử dụng giá đất trong Bảng giá đất…

Để hướng dẫn cụ thể một số quy định về nội dung này trong Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2024/NĐ-CP quy định về giá đất, có hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật Đất đai số 31/2024/QH15 có hiệu lực thi hành.

Theo đó, Nghị định 71/2024/NĐ-CP quy định cụ thể trình tự, nội dung xác định giá đất theo 4 phương pháp gồm so sánh, thu nhập, thặng dư, hệ số điều chỉnh giá đất. Nghị định cũng quy định cụ thể việc áp dụng phương pháp định giá đất của các trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 257 Luật Đất đai.

Theo Nghị định, từ ngày 1/8/2024, nhiều quy định về giá đất sẽ có hiệu lực, trong đó có các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất. Cụ thể, thay vì quy định các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất theo từng phương pháp định giá đất, Điều 8 Nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất với từng loại đất như với đất phi nông nghiệp: Vị trí, địa điểm thửa đất, khu đất; điều kiện giao thông về độ rộng, kết cấu mặt đường, tiếp giáp với một hoặc nhiều mặt đường; điều kiện cấp thoát nước, cấp điện; diện tích, kích thước, hình thể thửa đất và khu đất; thời hạn sử dụng đất; hiện trạng môi trường, an ninh…

Với đất nông nghiệp: Năng suất cây trồng, vật nuôi; vị trí, đặc điểm thửa đất, khu đất; thời hạn sử dụng đất trừ trường hợp giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân theo hạn mức trong hạn mức nhận chuyển quyền thì không có căn cứ vào thời hạn sử dụng đất; yếu tố khác….

Ứng dụng chuyển đổi số để cải cách thủ tục hành chính

Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 18 về “đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai” và nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về đất đai, tạo nền tảng cho việc tiến tới thực hiện dịch vụ công đất đai trực tuyến, đảm bảo tính chính xác, đồng nhất thông tin giữa các cơ quan, đơn vị, Luật Đất đai đã dành 1 chương quy định về thủ tục hành chính đất đai (Chương XIV) gồm có 7 điều (sửa đổi, bổ sung thêm 4 Điều so với Luật Đất đai năm 2013). Trong đó Luật Đất đai đã quy định rõ về công bố, công khai các thủ tục hành chính về đất đai; trách nhiệm thực hiện thủ tục hành chính về đất đai; trình tự thủ tục cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất; giao Chính phủ quy định cụ thể các thủ tục hành chính về đất đai.

Luật cũng cũng quy định các thủ tục hành chính về đất đai được thực hiện bằng hình thức trực tiếp, qua hệ thống bưu chính hoặc trên môi trường điện tử và có giá trị pháp lý như nhau; Cơ quan giải quyết TTHC về đất đai chịu trách nhiệm thực hiện đúng thẩm quyền và thời gian theo quy định của pháp luật. Việc quy định trong Luật đã làm rõ về hình thức nộp hồ sơ để đảm bảo sự linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế và ứng dụng công nghệ bao gồm hình thức nộp trực tiếp, qua hệ thống bưu chính hoặc trên môi trường điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.

Cùng với đó, thực hiện giải quyết TTHC trên môi trường điện tử đem lại nhiều hiệu quả thiết thực cho người dân, doanh nghiệp; sẽ giúp cho doanh nghiệp, người dân thuận lợi trong việc tra cứu thông tin, dịch vụ công các ngành, lĩnh vực, các địa phương; theo dõi toàn bộ quá trình giải quyết TTHC; thực hiện TTHC mọi lúc, mọi nơi; thanh toán trực tuyến phí, lệ phí thực hiện TTHC; dịch vụ công; Rút gọn quy trình và thời gian giải quyết TTHC; Nâng cao tính minh bạch trong giải quyết TTHC; Mở rộng các kênh giao tiếp công dân; Tăng cường các hoạt động hỗ trợ công dân…

Các quy định nói trên sẽ là cơ sở quan trọng để thực hiện việc minh bạch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo tiền đề để hiện đại hóa việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai cho người dân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.

Ngoài ra, tại Điều 203 và Điều 204 đã bỏ quy định về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Cảng vụ hàng không, Ban Quản lý khu công nghệ cao, Ban Quản lý khu kinh tế mà chuyển về Nhà nước trực tiếp giao đất, cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận đối với tổ chức, cá nhân sử dụng đất thuộc cảng hàng không, sân bay dân dụng, khu công nghệ cao, khu kinh tế nhằm bảo đảm quyền tiếp cận đất đai của các tổ chức, cá nhân, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm khâu trung gian trong quản lý, sử dụng đất.

Sẵn sàng triển khai Luật

Báo cáo về công tác chuẩn bị triển khai thi hành Luật Đất đai 2024 tại Hội nghị quán triệt, triển khai thi hành các luật, nghị quyết được thông qua tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV do Chính phủ tổ chức ngày 30/7, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết, đối với các văn bản thuộc trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì soạn thảo, Chính phủ đã ban hành các Nghị định gồm: Nghị định số 42/2024/NĐ-CP quy định về hoạt động lấn biển; Nghị định số 71/2024/NĐ-CP quy định về giá đất; Nghị định số 88/2024/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và Nghị định số 101/2024/NĐ-CP quy định về điều tra cơ bản đất đai; đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và hệ thống thông tin đất đai. Đối với Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký để phát hành văn bản.

Đối với các văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ đã ban hành các Thông tư gồm: Thông tư số 08/2024/TT-BTNMT quy định về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; Thông tư số 09/2024/TT-BTNMT quy định về hồ sơ địa chính, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đất; Thông tư số 10/2024/TT-BTNMT quy định về nội dung, cấu trúc, kiểu thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và yêu cầu kỹ thuật đối với phần mềm ứng dụng của hệ thống thông tin Quốc gia về đất đai đất và Thông tư số 11/2024/TT-BTNMT quy định về kỹ thuật điều tra, đánh giá đất đai; kỹ thuật bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất.

Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ký ban hành Thông tư 12/2024/TT-BTNMT ngày 29/7/2024 quy định chi tiết về đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cá nhân hành nghề tư vấn định giá đất; khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về giá đất. Như vậy, các văn bản thuộc trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường về xây dựng các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Đất đai cơ bản đã hoàn thành xong.

Đối với các văn bản thuộc trách nhiệm chủ trì của Bộ Tài chính (gồm: Nghị định quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và Nghị định quy định về Quỹ phát triển đất), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Nghị định quy định chi tiết về đất trồng lúa), Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người có đất thu hồi), Bộ Nội vụ (Thông tư quy định về việc lập, quản lý hồ sơ địa giới đơn vị hành chính), qua tổng hợp, các Bộ đang khẩn trương hoàn thiện để trình ban hành bảo đảm có hiệu lực đồng thời với thời điểm có hiệu lực của Luật Đất đai

Đối với văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân: trên cơ sở tổng hợp số liệu của 42/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về triển khai kế hoạch thi hành Luật Đất đai trong cả nước; đến nay, các địa phương đang khẩn trương đẩy nhanh tiến độ xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai theo thẩm quyền được giao để bảo đảm kịp thời, đồng bộ, thống nhất trong tổ chức thi hành Luật Đất đai. Tổng số văn bản, nội dung quy định chi tiết theo thẩm quyền dự kiến xây dựng là 544 văn bản, trong đó có 63 văn bản hoặc nội dung quy định chi tiết thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 481 văn bản hoặc nội dung quy định chi tiết thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Như vậy có thể nói các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của bộ, ngành, địa phương, phần lớn đã được các bộ, ngành, địa phương quy định chi tiết khi triển khai các bước đưa Luật Đất đai 2024 vào cuộc sống, đảm bảo tiến độ, chất lượng và có hiệu lực từ ngày 1/8/2024.

Theo Monre

NỘI DUNG KHÁC

Áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến để thu hồi tối đa khoáng sản

5-8-2024

Kế hoạch thực hiện Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ để thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản nhằm thu hồi tối đa khoáng sản chính, khoáng sản đi kèm và khoáng sản có chất lượng thấp. Kế hoạch cũng nhấn mạnh việc đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng thiết bị tiên tiến, hiện đại trong thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường.Không chỉ trong Kế hoạch trên, trong Dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản cũng có một số quy định nhằm thu hồi tối đa khoáng sản và bảo vệ môi trường trong thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản. Theo đó, trong quá trình xây dựng Dự thảo Luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định, một trong những nguyên tắc của hoạt động khoáng sản là khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với quy mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản.

Đổi mới về bồi thường tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất - Bảo vệ tốt hơn quyền hợp pháp của người bị thu hồi đất

9-8-2024

Nhiều đổi mới căn bản trong quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Luật Đất đai 2024 là cơ sở pháp lý quan trọng giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trên thực tiễn thời gian qua. Trong đó có nhiều quy định bảo vệ tốt hơn quyền hợp pháp của người dân, đặc biệt trong trường hợp người bị thu hồi đất, góp phần hạn chế và giải quyết tốt hơn khiếu kiện về đất đai. Về vấn đề này, bà Đỗ Thị Việt Hà - Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang cho rằng, quan hệ đất đai là quan hệ rất đặc biệt, luôn song song lợi ích của 3 bên, gồm: người sử dụng đất, doanh nghiệp và Nhà nước. Do đó, việc hài hòa, cân bằng lợi ích của các bên là yêu cầu cần thiết, rất khó nhưng phải làm. Quan điểm tiếp cận trong quản lý đất đai của Luật Đất đai 2024 có sự khác biệt căn bản so với trước, đó là chuyển từ sử dụng nhiều biện pháp hành chính mang tính áp đặt sang hướng sử dụng nhiều hơn các cơ chế thị trường để đảm bảo yếu tố về mặt lợi ích được điều tiết theo cơ chế thị trường. Do đó, nhóm điểm mới hết sức quan trọng đó là nhiều quy định bảo vệ tốt hơn quyền hợp pháp của người dân, như: quy định mở rộng quyền sử dụng đất với đối tượng là công dân Việt Nam, kể cả định cư, sinh sống ở nước ngoài; chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; thủ tục hành chính, cấp giấy chứng nhận cho người dân, doanh nghiệp và đặc biệt là nhóm các quy định mới hướng đến việc bảo vệ cho người có đất bị thu hồi cũng như bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

Tham vấn Dự thảo Hướng dẫn kỹ thuật Lập đề án chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên cấp cơ sở cho hệ sinh thái biển và hệ sinh thái đất ngập nước tại Việt Nam

12-8-2024

Ngày 12/8/2024, trong khuôn khổ dự án “Mạng lưới Dịch vụ Hệ sinh thái và Đa dạng sinh học Pha II” (BET-Net II), Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc tại Việt Nam (UNDP-Việt Nam) phối hợp với Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường (ISPONRE) và Viện Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng (RIFEE) tổ chức họp Tham vấn chuyên gia Dự thảo Hướng dẫn kỹ thuật Lập đề án chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên cấp cơ sở cho hệ sinh thái biển và hệ sinh thái đất ngập nước tại Việt Nam. Hội thảo do PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng ISPONRE chủ trì. RIFEE là đơn vị tư vấn triển khai hoạt động “Xây dựng Hướng dẫn kỹ thuật lập Đề án Chi trả Dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên cấp cơ sở cho hệ sinh thái biển và hệ sinh thái đất ngập nước tại Việt Nam, áp dụng thí điểm tại Vườn quốc gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp”. Mục tiêu của nhiệm vụ là xác định được tên gọi, địa danh của HST tự nhiên cung ứng DVHST; Đánh giá được hiện trạng, đặc điểm của HST tự nhiên cung ứng DVHST; Xác định được các loại hình DVHST tự nhiên được cung ứng; Xác định được danh sách, cá nhân được hưởng lợi và phải chi trả cho các DVHST được cung ứng; Xác định được các biện pháp bảo tồn, duy trì và phát triển HST tự nhiên; Xác định được mức chi trả, hình thức chi trả cho các DVHST được cung ứng; Xây dựng được phương án sử dụng nguồn thu từ chi trả DVHST.

ISPONRE họp tham vấn với chuyên gia về xây dựng đề xuất dự án huy động nguồn lực trong lĩnh vực quản lý hóa chất và chất thải

14-8-2024

Ngày 13/8/2024, để lấy ý kiến các bên liên quan hoàn thiện đề xuất kỹ thuật, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường phối hợp với Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) tổ chức cuộc họp tham vấn xây dựng đề xuất dự án huy động nguồn lực trong lĩnh vực quản lý hóa chất và chất thải. Cuộc họp do Phó Viện trưởng Nguyễn Trung Thắng chủ trì với sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý hóa chất và chất thải. Cuộc họp được tổ chức với mục tiêu tăng cường hiểu biết về hiện trạng quản lý hóa chất và chất thải tại Việt Nam; làm thế nào để huy động tài trợ từ Quỹ Tín thác Chương trình đặc biệt của UNEP; đồng thời tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan trong việc hoàn thiện đề xuất dự án cho Việt Nam. Việt Nam là đối tác tin cậy và có trách nhiệm trong việc hợp tác với UNDP và UNEP để triển khai thực hiện Công ước Stockholm, Basel, Rotterdam, Minamata, SAICM. Để giải quyết vấn đề quản lý hợp lý hóa chất và chất thải nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, chuyển dịch kinh tế theo hướng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế phát thải các-bon thấp là xu thế tất yếu của thời đại, được đồng thuận toàn cầu và được các nước trên thế giới coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỷ 21. Đây cũng là cơ hội để cộng đồng toàn cầu chung tay thực hiện cam kết quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu nhằm mục tiêu phát triển bền vững vì sức khỏe của người dân, môi trường thiên nhiên và Trái đất.

Hoàn thiện quy định pháp luật về thăm dò, đánh giá trữ lượng khoáng sản có ích đi kèm

20-8-2024

Các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản đã quy định về công tác thăm dò và đánh giá trữ lượng, tài nguyên các loại khoáng sản, trong đó có khoáng sản có ích đi kèm trong diện tích thăm dò. Để hạn chế những bất cập trong công tác thăm dò, thẩm định, công nhận trữ lượng khoáng sản có ích đi kèm, cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung trong quy định của pháp luật về khoáng sản. Thực tế thăm dò cho thấy hầu hết các mỏ khoáng sản là mỏ khoáng sản tổng hợp (mỏ có từ 1 đến 2 khoáng sản, hoặc có một số thành phần đi kèm có thể thu hồi có hiệu quả). Thông thường khi lập đề án thăm dò đã xác định đối tượng khoáng sản chính và các khoáng sản có ích đi kèm như các mỏ chì - kẽm, mỏ thiếc - volfram gốc, mỏ volfram đa kim, mỏ đồng - niken, mỏ vàng, mỏ đất hiếm… và các báo cáo kết quả thăm dò đã tính được trữ lượng, tài nguyên các khoáng sản chính, khoáng sản và thành phần có ích đi kèm ở mỏ.

GreenEcard: Giải pháp công nghệ số hóa để bảo vệ môi trường

20-8-2024

Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường, việc tìm kiếm các giải pháp bền vững và thân thiện với thiên nhiên đã trở thành một ưu tiên hàng đầu. GreenEcard - dịch vụ thẻ sinh thái số hóa nổi lên như một bước tiến quan trọng trong việc giảm thiểu rác thải nhựa, góp phần bảo vệ môi trường. Trước hết, phải nhấn mạnh rằng rác thải nhựa là một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất hiện nay. Theo các báo cáo và nghiên cứu gần đây, mỗi năm có khoảng 8 - 12 triệu tấn nhựa bị thải ra môi trường, gây hại không chỉ cho hệ sinh thái mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Nhựa khó phân hủy tự nhiên và khi chúng tích tụ trong đất, nước, và không khí, chúng có thể tồn tại hàng trăm năm mà không phân rã. Điều này gây ra các vấn đề về ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến các sinh vật biển và đất liền và thậm chí làm gián đoạn chuỗi thức ăn của con người. Trong bối cảnh đó, việc giảm thiểu sử dụng nhựa là một nhiệm vụ cấp bách. GreenEcard ra đời như một giải pháp công nghệ tiên tiến nhằm đối phó với vấn đề này. Với việc sử dụng GreenEcard, các loại thẻ nhựa truyền thống được thay thế bằng phiên bản số hóa, dễ dàng lưu trữ và quản lý trên các thiết bị điện tử như điện thoại di động, máy tính bảng, hay máy tính cá nhân.

Kiểm kê khí nhà kính để tăng tốc giảm phát thải

27-8-2024

Chính phủ vừa ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật). Đây sẽ là căn cứ để các ngành, lĩnh vực phân bổ nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm phát thải và doanh nghiệp có thể tham gia thị trường các-bon trong thời gian tới. Theo Luật Bảo vệ Môi trường, định kỳ 2 năm một lần, Chính phủ sẽ cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Danh mục đầu tiên được Chính phủ ban hành năm 2022 tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg gồm có 6 lĩnh vực và 1.912 cơ sở.Ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg; bao gồm 6 lĩnh vực và 2.166 cơ sở, chiếm khoảng 30% tổng phát thải khí nhà kính quốc gia.So với Quyết định 01, danh mục mới đã loại ra 297 cơ sở do đã dừng hoạt động hoặc giảm quy mô, công suất hoạt động và cập nhật bổ sung 551 cơ sở mới có lượng phát thải khí nhà kính lớn nằm trong diện quản lý.

Chuyển đổi xanh Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê khí nhà kính

27-8-2024

Nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tại Hải Phòng nắm bắt được các quy định về kiểm kê cũng như trách nhiệm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK); có khả năng thực thi bước đầu các yêu cầu kỹ thuật mới theo luật pháp trong nước và quốc tế, ngày 15/8/2024, tại Hải Phòng, Trung tâm Chứng nhận phù hợp (QUACERT) - Ủy ban Tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia, Viện Chiến lược và công nghệ Logistics (VLIST), Hiệp hội Logistics Hải Phòng (HPLA), Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hải Phòng (HPSME) và Tạp chí Môi trường phối hợp tổ chức Hội thảo “Chuyển đổi xanh Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê KNK”. Tại Hội thảo, các đại biểu được chia sẻ nhiều thông tin hữu ích về kinh nghiệm áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong kiểm kê KNK, trung hòa các-bon; các phương pháp trung hòa các-bon đã và đang được triển khai; những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp trong thực hiện kiểm kê KNK... Qua đó giúp các doanh nghiệp tại Hải Phòng hiểu được yêu cầu và thực tiễn về chuyển đổi xanh, Net zero, trung hòa các-bon, tín chỉ các-bon và kiểm kê KNK. Hội thảo cũng thảo luận sâu rộng các nội dung liên quan đến công nghệ quan trắc, giám sát và kiểm kê KNK, từ đó mang đến cái nhìn toàn diện về tình hình phát thải trong các ngành công nghiệp, năng lượng, nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Đồng thời, đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển bền vững các ngành kinh tế chủ lực của địa phương, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh, hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật)

27-8-2024

Ngày 13/8/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật) tại Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg. Thực hiện Luật BVMT năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương xây dựng danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và được cập nhật 2 năm một lần. Thực hiện quy định nêu trên, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg. Theo đó, các lĩnh vực phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm: năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, các quá trình công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, chất thải. Các cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính gồm có 1.912 cơ sở, thuộc các ngành: công thương, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên và môi trường.

Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon

10-9-2024

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa ban hành Kế hoạch số 09/KH-BTNMT Triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý tín chỉ các-bon nhằm thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ; nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định Kế hoạch nhằm mục đích triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Chỉ thị số 13/CT-TTg, trong đó cụ thể hóa các nội dung, nhiệm vụ cho đơn vị có liên quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đồng thời nâng cao nhận thức, vai trò của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và toàn xã hội về việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam; về quản lý tín chỉ các-bon, phương thức tạo tín chỉ các-bon, phát triển thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon thế giới.

Châu Phi tăng cường hành động phối hợp: Biến khủng hoảng môi trường thành cơ hội phát triển

10-9-2024

Hội nghị Bộ trưởng châu Phi về Môi trường tuần này có thể là cơ hội cuối cùng để tất cả các bộ trưởng môi trường châu Phi tập trung và thống nhất các chính sách và hành động trước 3 hội nghị toàn cầu quan trọng về đa dạng sinh học, khí hậu và sa mạc hóa vào cuối năm nay. Tác động của ba cuộc khủng hoảng hành tinh gồm biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm đang làm tổn hại đến cảnh quan của châu Phi, làm cạn kiệt các đại dương và nguồn nước ngọt của châu lục này, đồng thời khiến tình trạng ô nhiễm không khí đô thị lên mức nguy hiểm. Một số tác động lan rộng của ba cuộc khủng hoảng hành tinh có thể là tác động tàn phá nhất: Châu Phi là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do sa mạc hóa và suy thoái đất, với khoảng 45% diện tích đất bị ảnh hưởng. Riêng ở vùng Sừng châu Phi và Sahel, suy thoái đất đã gây ra tình trạng thiếu lương thực cho hơn 23 triệu người. Chỉ tính riêng tháng trước, hơn 700.000 người đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt ở Trung và Tây Phi, và hàng chục triệu người ở miền Nam châu Phi đang phải đối mặt với hạn hán.

Nhiên liệu ethanol - đóng góp quan trọng trong hành trình chuyển đổi “xanh”

10-9-2024

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc chuyển sang sử dụng nhiên liệu ethanol đóng góp tích cực trong hành trình này. Với gần 100 triệu dân và khoảng 79 triệu phương tiện (73 triệu xe máy và hơn 6 triệu ô tô), việc chuyển sang các nguồn nhiên liệu bền vững như xăng ethanol là cần thiết để phát triển hệ thống giao thông xanh giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050. Thực tế, chỉ riêng năm 2023, việc pha trộn ethanol vào xăng đã giúp giảm 56,5 triệu tấn khí thải nhà kính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Con số này tương đương với việc loại bỏ 12 triệu xe ô tô khỏi đường phố mỗi năm; lượng khí thải hàng năm của 15 nhà máy điện than; hoặc thậm chí tương đương với lượng khí thải từ 325.000 chuyến bay khứ hồi từ Los Angeles đến Thành phố New York. Theo nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, ethanol sản xuất từ các nguyên liệu nông nghiệp có thể giảm lượng khí thải nhà kính lên đến 80%, tùy thuộc vào nguyên liệu sử dụng. Một tương lai xanh mà ở đó ethanol trở thành nhiên liệu chính cho động cơ là hoàn toàn có thể.