TIN TỨC-SỰ KIỆN

Hội thảo công bố khởi động và tham vấn kỹ thuật Dự án “Quản lý tổng hợp cảnh quan bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long”

Ngày đăng: 22 | 12 | 2024

Ngày 20/12/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) tổ chức Hội thảo công bố khởi động và tham vấn kỹ thuật Dự án “Quản lý tổng hợp cảnh quan bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long” do Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua tổ chức Lượng thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO). Để góp phần thúc đẩy phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng thuận thiên, dựa vào tự nhiên dựa trên tiếp cận quản lý cảnh quan tổng hợp, ISPONRE được giao chủ trì phối hợp với FAO tại Việt Nam hoàn thiện văn kiện Dự án. Dự án có thời gian thực hiện trong 5 năm (2024-2028) với mục tiêu chung “Hỗ trợ chuyển đổi vùng sản xuất lúa gạo chủ đạo ở vùng ĐBSCL sang mô hình sản xuất và quản lý tổng hợp cảnh quản quan bền vững, thích ứng và có khả năng chống chịu với BĐKH nhằm mang lại các lợi ích về môi trường và xã hội”. Trong dự án này sở ban ngành của 05 tỉnh gồm An Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Sóc Trăng và Vĩnh Long cũng như các tổ chức, chuyên gia và nhà khoa học đã cung cấp thông tin, số liệu và đóng góp ý kiến đối với văn kiện dự án, đặc biệt là cách tiếp cận thực hiện. PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng ISPONRE kiêm Giám đốc Ban Quản lý Dự án chủ trì Hội thảo. Hội thảo còn có sự tham gia của TS. Rémi Nono Womdim, Trưởng Đại diện FAO tại Việt Nam; TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cùng các cán bộ, chuyên gia thực hiện.

z6148190471821 8b27ca76741535885c415a87b6e86bba
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng ISPONRE kiêm Giám đốc Ban Quản lý Dự án phát biểu khai mạc Hội thảo

Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được đánh giá một trong những đồng bằng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa gạo của thế giới. Dù có nhiều lợi thế về sản xuất các sản phẩm nông nghiệp quan trọng như lúa gạo, trái cây, thuỷ sản… nhưng vùng đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với nhiều thách thức trở ngại như phát triển vùng thượng nguồn sông Mê Công, đặc biệt là xây dựng các nhà máy thủy điện, thủy lợi… làm cho lượng phù sa về vùng ĐBSCL ngày càng giảm, tác động bất lợi do biển đổi khí hậu gây ra như nước biển dâng, mưa cực đoan…. cũng hệ thống sản xuất nông nghiệp chưa được quy hoạch, định hướng phát triển phù hợp, dựa trên đặc điểm thủy văn, thổ nhưỡng…và nhu cầu của thị trường.

z6148190471832 9f2a2576ae55fa9eaf5ae1ad3fc6a2c7
TS. Rémi Nono Womdim, Trưởng Đại diện FAO tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo

Suy giảm chất lượng tài nguyên đất, tài nguyên nước và dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, sử dụng đất chưa theo quy hoạch và nhiều hoạt động sản xuất diễn ra trên cùng một khu vực (ví dụ, công nghiệp, nông nghiệp, nhà ở,)… cũng được xem là những nguyên nhân dẫn đến tính thiếu bền vững tại vùng ĐBSCL.

Nghị quyết 120 của Chính phủ ban hành tháng 11 năm 2017 về phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với BĐKH với mục tiêu đến năm 2050 “…. Hạ tầng thủy lợi được xây dựng đồng bộ phù hợp với mô hình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tiểu vùng sinh thái, đồng thời phải có biện pháp hiệu quả phòng, chống, giảm nhẹ rủi ro thiên tai cho dân sinh và nền kinh tế khi có thiên tai xảy ra. Trong đó, phát triển bền vững, thuận thiên là định hướng chủ đạo đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long.

IMG 0963
TS. Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn phát biểu tại Hội thảo

Dự án dự kiến thực hiện từ nay đến năm 2028 với mục tiêu thúc đẩy sản xuất nông nghiệp nói chung, lúa gạo nói riêng theo hướng bền vững dựa trên đánh giá đầy đủ các nguồn lực tự nhiên (đất đai, nguồn nước, dịch vụ hệ sinh thái…) và tín hiệu, yêu cầu của thị trường, người tiêu dùng đối với các sản phẩm nông nghiệp xanh, nông nghiệp ít phát thải, nông nghiệp tuần hoàn. Dự án này đã được chuẩn bị từ năm 2019-2020 và được Quỹ môi trường toàn cầu phê duyệt vào tháng 6 năm 2021- tuy nhiên do tình hình Covid 19 và một số thay đổi về quản lý dự án viện trợ nước ngoài của Chính phủ nên hiện nay mới chính thức bắt đầu triển khai các hoạt động của dự án.

Tháng 1 năm 2024, Văn kiện dự án đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt, tuy nhiên có thay đổi về thủ tục quản lý nguồn vốn ODA nên quá trình xây dựng, phê duyệt kế hoạch tổng thể dự án và kế hoạch thực hiện năm 2024 chậm hơn so với dự kiến. Ngày 09/12/2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường cơ quan chủ quan dự án đã ban hành Quyết định số 3968/QĐ-BTNMT phê duyệt kế hoạch thực hiện tổng thể của dự án và kế hoạch thực hiện năm thứ nhất.

IMG 0956
TS. Nguyễn Sỹ Linh, Trưởng ban Biến đỏi khí hậu và Các vấn đề toàn cầu (ISPONRE) trình bày tại Hội thảo

Để thực hiện mục tiêu quản lý tổng hợp cảnh quan, phát triển hệ thống sản xuất lương thực bền vững vùng ĐBSCL trong quá trình triển khai dự án chung tôi mong muốn được tiếp tục phối hợp với các tổ chức trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp hoạt động trong chuối giá trị nông sản xanh, đặc biệt là chuỗi giá trị lúa gạo… Vấn đề quản lý tổng hợp cảnh quan, tiếp cận cảnh quan trong phát triển các hệ thống sản xuất nói chung, sản xuất lượng thực-thực phẩm nói riêng là vấn đề mới và phức tạp nên Hội thảo mong muốn nhận được góp ý, tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình thực hiện dự án này.

IMG 0957

IMG 0968

Trung tâm TVĐT&DVTNMT

 

NỘI DUNG KHÁC

Hội thảo tham vấn “Hướng dẫn kỹ thuật lồng ghép giới trong kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu cấp tỉnh ở Việt Nam”

24-12-2024

Ngày 23/12/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) phối hợp với Cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho Phụ nữ tại Việt Nam (UN Women Việt Nam) tổ chức Hội thảo tham vấn “Hướng dẫn kỹ thuật lồng ghép giới trong kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu cấp tỉnh ở Việt Nam” do Phó Viện trưởng Mai Thanh Dung chủ trì. Hội thảo còn có sự tham gia của bà Lương Như Oanh, cán bộ chương trình, đại diện UN Women Việt Nam. Đây là sự kiện nằm trong khuôn khổ hoạt động “Xây dựng và hỗ trợ thực hiện hướng dẫn kỹ thuật về lồng ghép giới trong các chương trình/dự án/kế hoạch biến đổi khí hậu cấp trung ương và cấp tỉnh ở Việt Nam nhằm hỗ trợ địa phương hóa và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới nêu trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu” với mục tiêu: (1) cải thiện kết quả và tác động của các chương trình/dự án/kế hoạch về biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với cuộc sống của phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương ở Việt Nam; (2) tăng cường năng lực cho các bên liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam, thông qua xây dựng và hỗ trợ thực hiện lồng ghép giới trong các chương trình/dự án/kế hoạch về BĐKH. Hiện nay, đã có một số tài liệu hướng dẫn lồng ghép giới trong Chiến lược và Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH cũng như cho các dự án về BĐKH nhưng vẫn còn thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể về lồng ghép giới trong Kế hoạch ứng phó với BĐKH cấp tỉnh. Hội thảo thành công tốt đẹp thu hút sự tham gia của nhiều đơn vị quản lý, chuyên gia, nhà khoa học từ các tổ chức trong nước và phi chính phủ.

Hội thảo Khoa học – Thực tiễn về “Xây dựng, phát triển thị trường carbon – tạo động lực phát triển nền kinh tế xanh ở Việt Nam”

31-12-2024

Ngày 30/12/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường phối hợp với Viện Tư vấn Công nghệ và đào tạo Toàn Cầu tổ chức Hội thảo Khoa học – Thực tiễn về “Xây dựng, phát triển thị trường carbon – tạo động lực phát triển nền kinh tế xanh ở Việt Nam”. Mục tiêu của Hội thảo là giới thiệu các khái niệm cơ bản về thị trường carbon, cơ chế giao dịch phát thải và tín chỉ carbon, làm rõ tầm quan trọng của thị trường carbon trong việc giảm phát thải khí nhà kính và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, đề xuất giải pháp về kỹ thuật, tài chính, và quản lý để thúc đẩy thị trường carbon tại Việt Nam phát triển minh bạch và hiệu quả. PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường đã đến dự và chủ trì Hội thảo. Hội thảo thu hút sự quan tâm của nhiều cán bộ quản lý, nhà khoa học, chuyên gia. Thị trường carbon là một công cụ kinh tế quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính (KNK) và thúc đẩy phát triển bền vững. Thông qua cơ chế mua bán hạn ngạch phát thải, các doanh nghiệp và tổ chức có thể tối ưu hóa chi phí giảm phát thải, đồng thời khuyến khích các hoạt động đầu tư vào công nghệ sạch và năng lượng tái tạo. Trên thế giới, thị trường carbon đã phát triển mạnh mẽ với hai hình thức chính: thị trường giao dịch phát thải (ETS) và thị trường tín chỉ carbon tự nguyện.

Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ đặc thù “Đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu môi trường và phát triển bền vững đến năm 2030”

31-12-2024

Ngày 31/12/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ đặc thù “Đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu môi trường và phát triển bền vững đến năm 2030”. Đây là nhiệm vụ hằng năm Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường thực hiện báo cáo về tình hình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của ngành tài nguyên môi trường đến năm 2030 để Bộ Tài nguyên và Môi trường gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp. Mục tiêu là để đảm bảo nguồn dữ liệu, thông tin được cập nhật đầy đủ, thường xuyên; việc xác định kịp thời các khó khăn, vướng mắc là hết sức cần thiết; từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục phù hợp trong việc thực hiện SDGs. Thực hiện cam kết của Việt Nam, ngày 10 tháng 5 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu và 115 mục tiêu cụ thể (VSDGs) tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu. Các mục tiêu trong Quyết định 622/QĐ-TTg được xây dựng dựa trên việc rà soát 17 mục tiêu với 169 mục tiêu cụ thể toàn cầu và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện, khả năng thực hiện của Việt Nam. Mỗi mục tiêu trong Quyết định trên tùy tính chất, nội dung sẽ bao gồm từ một đến nhiều nhiệm vụ cụ thể được phân công cho các bộ, ngành chủ trì thực hiện. Trong 115 mục tiêu cụ thể với 151 nhiệm vụ thực hiện thì Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì 17 nhiệm vụ và phối hợp thực hiện 54 nhiệm vụ.

Điều kiện cần và đủ để phát triển nhựa tái chế

5-1-2025

Chất lượng các sản phẩm nhựa tái chế của Việt Nam ngày càng được khẳng định, và đã xuất khẩu sang nhiều thị trường “khó tính” nhất thế giới. Tuy nhiên, các sản phẩm này lại đang bị “thua” trên chính “sân nhà” do người tiêu dùng trong nước vẫn còn e dè và nghi nghờ về chất lượng các sản phẩm này. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, thế giới thải ra hơn 300 triệu tấn rác thải nhựa mỗi năm, trong đó 79% nằm vất vưởng ở các bãi rác hoặc ngoài môi trường tự nhiên, 12% bị đốt và chỉ có 9% được tái chế. Mỗi phút có khoảng 1 triệu chai nhựa và 5.000 tỷ túi ni-lông được tiêu thụ. Thực trạng đáng lo ngại này gióng hồi chuông cảnh báo về tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa ngày càng nghiêm trọng, đe dọa môi trường sống của chính con người. Tại Việt Nam, theo thống kê từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm có khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa thải ra môi trường, trong đó 0,28 - 0,73 triệu tấn bị thải ra biển. Bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1 kg túi nilon/tháng, riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh trung bình mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn rác thải nhựa và túi nilon. Tuy nhiên, việc xử lý và tái chế rác thải nhựa còn nhiều hạn chế, 90% rác thải nhựa được xử lý theo cách chôn, lấp, đốt và chỉ có 10% còn lại là được tái chế.

Chính sách liên quan đến tài nguyên môi trường có hiệu lực từ đầu năm 2025

5-1-2025

Ngay trong những ngày đầu năm 2025, các quy định liên quan đến trách nhiệm tái chế với sản phẩm điện – điện tử, phí bảo vệ môi trường đối với khí thải, thủ tục khai, nộp phí bảo vệ môi trường đối với khí thải sẽ bắt đầu có hiệu lực.Trách nhiệm tái chế sản phẩm điện – điện tửTheo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, từ ngày 1/1/2025, các nhà sản xuất, nhập khẩu sản phẩm điện – điện tử phải thực hiện trách nhiệm tái chế.Các sản phẩm điện – điện tử bao gồm: tủ lạnh, tủ đông, thiết bị tự động cung cấp sản phẩm đông lạnh, máy bán hàng tự động; điều hoà không khí cố định, di động; máy tính bảng, máy tính xách tay; ti vi và màn hình máy tính, các loại màn hình khác; bóng đèn compact; bóng đèn huỳnh quang; bếp điện, bếp từ, bếp hồng ngoại, lò nướng, lò vi sóng; máy giặt, máy sấy; máy ảnh, máy quay phim; thiết bị âm thanh (loa, amply); máy tính để bàn; máy in, photocopy; điện thoại di động; tấm quang năng.Tuy nhiên, nhà sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm điện – điện tử sẽ không phải thực hiện trách nhiệm tái chế nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Sản xuất sản phẩm, bao bì để xuất khẩu; Tạm nhập, tái xuất sản phẩm, bao bì; Sản xuất, nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, học tập, thử nghiệm (không vì mục đích thương mại);  Nhà sản xuất bao bì có doanh thu bán hàng, cung cấp dịch vụ của năm trước dưới 30 tỷ đồng; Nhà nhập khẩu bao bì có tổng giá trị nhập khẩu (tính theo trị giá hải quan) của năm trước dưới 20 tỷ đồng.

Hoàn thiện chính sách, khơi thông nguồn lực tài nguyên khoáng sản

16-1-2025

Năm 2024, Ngành Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã tổ chức thực hiện và hoàn thành khối lượng công việc rất lớn góp phần quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia. Bước sang năm 2025, ngành tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thi hành Luật Địa chất và Khoáng sản đồng bộ, hiệu quả, đồng thời tiếp tục triển khai và hoàn thiện các đề án địa chất quan trọng được Chính phủ giao. Theo báo cáo tổng kết của lĩnh vực địa chất và khoáng sản, năm 2024, với mục tiêu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về địa chất, khoáng sản, Ngành Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện xuất sắc việc xây dựng Luật Địa chất và Khoáng sản được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV góp phần khơi thông nguồn lực địa chất và khoáng sản, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới. Cùng với việc hoàn thiện Luật Địa chất và Khoáng sản, 2 đơn vị cũng tập trung xây dựng 8 Thông tư, 23 tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, 6 định mức kinh tế kỹ thuật.

Hội thảo Thúc đẩy Tái chế Chất thải Điện tử tại Việt Nam

16-1-2025

Ngày 15/1/2025, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE) phối hợp với Bộ Môi trường Nhật Bản (MOEJ) tổ chức Hội thảo Thúc đẩy Tái chế Chất thải Điện tử tại Việt Nam. Hội thảo ông Mai Thanh Dung - Phó Viện trưởng ISPONRE chủ trì. Hội thảo có sự tham gia của đại diện nhà quản lý, chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp và đại diện các tổ chức trong nước và quốc tế. Thúc đẩy tái chế chất thải điện tử là một trong các hoạt động nằm trong khuôn khổ hợp tác đối thoại chính sách về môi trường giữa Việt Nam và Nhật Bản. ISPONRE đã phối hợp Bộ Tài nguyên và môi trường Nhật Bản thực hiện nhiều hoạt động về thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải điện tử như Xây dựng sổ tay tham khảo về tái chế chất thải điện tử. Những nghiên cứu này không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững cho hoạt động quản lý bền vững, ngành công nghiệp tái chế chất thải điện tử tại Việt Nam mà còn hỗ trợ việc xây dựng chính sách phù hợp với định hướng của Chính phủ về chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn.

Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 và triển khai phương hướng nhiệm vụ năm 2025

16-1-2025

Ngày 15/1/2024, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 và triển khai phương hướng nhiệm vụ năm 2025. Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên đã đến dự chủ trì Hội nghị. Báo cáo tại Hội nghị, Phó Viện trưởng Nguyễn Trung cho biết, trong năm 2024, với nỗ lực lớn của tập thể Lãnh đạo, viên chức, người lao động, các nhiệm vụ của Viện đã được triển khai cơ bản đáp ứng tiến độ, chất lượng Những tháng cuối năm 2024, Viện đã thống nhất phương án hợp nhất các với mục tiêu tiếp tục hoàn thiện, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và kiện toàn cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức, đơn vị bảo đảm tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau khi hợp nhất Bộ Tài nguyên và Môi trường  (Bộ TN&MT) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) theo chủ trương của Trung ương, bảo đảm phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị và của Bộ mới sau hợp nhất. Viện đã hoàn thành việc xây dựng Đề án vị trí việc làm trình Bộ phê duyệt; hoàn thành phương án hợp nhất Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường và Viện Chính sách và Chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn trình Thứ trưởng Trần Quý Kiên xem xét, chỉ đạo trước khi trình Bộ xem xét, phê duyệt.

Phát huy tính dân chủ, đoàn kết, thống nhất, đồng lòng, xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh

23-1-2025

Ngày 16/1/2025, tại Hà Nội, Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT cùng với Ban Chấp hành Công đoàn tổ chức Hội nghị viên chức và người lao động năm 2025. Tham dự Hội nghị có PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng; ông Nguyễn Ngọc Tú, Chánh Văn phòng - Chủ tịch Công đoàn; các Phó Viện trưởng: Nguyễn Trung Thắng, Mai Thanh Dung, Nguyễn Minh Trung cùng toàn thể cán bộ, viên chức, người lao động của Viện. Mục tiêu của Hội nghị nhằm phát huy quyền làm chủ của viên chức, người lao động trong Viện và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong các hoạt động của Viện; phát huy tính dân chủ trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác năm 2024 và xây dựng phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2025. Với tinh thần gọn nhẹ, nghiêm túc, thẳng thắn, dân chủ, đoàn kết, thiết thực, cùng với sự thống nhất trong toàn đơn vị, Hội nghị đã diễn ra thành công tốt đẹp. 

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035

23-1-2025

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 23/1/2025 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 (Kế hoạch). Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch nhằm hình thành hệ thống cơ cấu sản xuất, tiêu dùng bền vững, sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa nguyên liệu, vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế chất thải phát sinh và giảm tác động xấu đến môi trường; phát triển mạnh các mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh; tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động; phát triển các thực hành tốt, tạo dựng văn hóa và lối sống xanh, thúc đẩy tạo việc làm xanh và phát triển chuỗi giá trị mới trong lĩnh vực kinh tế tuần hoàn.

Quản lý tài nguyên nước: Những hạt giống nảy mầm từ quyết sách

4-2-2025

Tài nguyên nước là nền tảng của sự sống, là động lực phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với nghịch lý về tài nguyên nước: “Quá thừa, quá thiếu, quá bẩn”. Hiện tượng thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân và sự phát triển bền vững của quốc gia. Trước bối cảnh đó, việc xây dựng và hoàn thiện các Quy hoạch tài nguyên nước trên lưu vực sông là bước đi mang tính chiến lược, đặt nền tảng pháp lý quan trọng, là gốc rễ cho công tác quản lý, khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này. Kể từ khi Luật Tài nguyên nước 1998 được ban hành, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước tại Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đây là dấu mốc nền tảng, đặt nền móng pháp lý cho việc bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước một cách bền vững. Luật Tài nguyên nước 1998 không chỉ thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng mà còn phản ánh chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến tài nguyên nước. Lần đầu tiên, các nguyên tắc hiện đại về quản lý tổng hợp tài nguyên nước được đưa vào hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế.