THỊ TRƯỜNG

Khủng hoảng làng nghề và chính sách hỗ trợ

Ngày đăng: 01 | 03 | 2010

AGROINFO – Trong tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, các làng nghề đã gặp phải những khó khăn gì, vượt qua thử thách như thế nào… Hiệu quả của những chính sách hỗ trợ ra sao… Đó là những mục đích chính mà nghiên cứu về làng nghề của IPSARD đang thực hiện…

Làng nghề và những giá trị  kinh tế văn hóa

Cả nước hiện có khoảng 2.790 làng có nghề, trong đó hơn 2000 làng nghề truyền thống, các làng nghề này đã thu hút và giải quyết việc làm cho khoảng 11,0 triệu lao động thuộc 1,423 triệu hộ gia đình, trong đó có cả người già, thương binh, người tàn tật, trẻ em và lao động nông nhàn (Hiệp hội làng nghề Việt Nam, 2008), đem lại việc làm cho hơn 1,30 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và khoảng 3 - 5 triệu lao động thời vụ.

 
 Làng nghề không tránh khỏi tác động của khủng hoảng kinh tế. Ảnh minh họa: Internet

Ở đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là nơi có mật độ làng nghề lớn nhất cả nước với trên sấp sỉ 1000 làng nghề truyền thống, nổi tiếng như: gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc (Hà Đông), Tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), thêu XQ (Đà Lạt),v.v... Trong các nghề này, các nhóm nghề phổ biến và có giá trị kinh tế văn hóa cao nhất là nghề đồ gỗ mỹ nghệ, gốm sứ, mây tre đan, thêu gen dệt lụa và nghề dệt chiếu cói... Sự phân bố các làng nghề truyền thống thuộc các nhóm nghề quan trọng ở ĐBSH có thể mô tả như sau:

Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm của làng nghề không ngừng tăng lên, khoảng 750 triệu USD năm 2007; gần 1,0 tỷ USD năm 2008. Trước khủng hoảng kinh tế, việc làm tại các làng nghề tuy chưa đem lại thu nhập cao cho người lao động địa phương nhưng tương đối ổn định. Nhiều làng nghề như  Đồng Kỵ, Đa Hội (Bắc Ninh), lụa Vạn Phúc, mây tre đan Phú Vinh (Hà Nội) có mức thu nhập trung bình 1,2 triệu đồng/người/tháng, công nhân kỹ thuật hoặc có tay nghề 3.0 triệu đồng/người/tháng. Theo các chuyên gia, nhờ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, nguyên phụ liệu nhập không đáng kể, thường chỉ chiếm 35% giá trị hàng hoá được sản xuất nên giá trị thực thu (hay giá kinh tế) của ngành thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề có thể đạt tới 95-97%.

 
Nghề dệt lụa ở Vạn Phúc - Hà Đông. Ảnh minh họa: Internet

Các mặt hàng thủ công truyền thống của các làng nghề có nhiều tiềm năng về thị trường trong nước và quốc tế, đặc biệt nếu kết hợp chặt chẽ với ngành du lịch. Giá trị của các làng nghề không chỉ là tạo ra công ăn việc làm thu nhập cho người lao động hay các giá trị kinh tế khác, mà làng nghề còn có giá trị về văn hóa, lịch sử vô cùng quan trọng.

Làng nghề trong khủng hoảng kinh tế năm 2008-2009

Tuy nhiên, các làng nghề hiện nay (cụ thể là các doanh nghiệp và hộ sản xuất) cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế năm vừa qua. “Tính đến tháng 3 năm 2009, có khoảng 60% doanh nghiệp làng nghề đang phải hoạt động cầm cự, khoảng 20% đang thoi thóp. Các doanh nghiệp này có thể sẽ phá sản nếu không có biện pháp mạnh hỗ trợ các làng nghề vượt qua khó khăn”. Năm 2009 sẽ có khoảng 5 triệu lao động làng nghề mất việc làm (kể cả công nhân thời vụ), trong đó các ngành như gốm sứ, mây tre, đan lát… sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. (Hiệp hội làng nghề Việt Nam). Còn theo Bộ NN&PTNT, từ báo cáo của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho biết: đến giữa tháng 3/2009 đã có 9 làng nghề phá sản; 124 làng nghề sản xuất cầm chừng; khoảng 2.166 hộ kinh doanh và 2 DN phá sản, 468 DN sản xuất cầm chừng (chiếm khoảng 16% tổng số doanh nghiệp).

Những nguy cơ và các tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế đến sự phát triển của các làng nghề ngày càng cụ thể và hiện hữu:

-           Thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, bị bế tắc khiến cho nguy cơ mất thị trường truyền thống ngày càng hiện hữu.

-           Khi không bán được sản phẩm, đến lượt các doanh nghiệp, các hộ làm nghề sẽ rơi vào tình trạng sản xuất đình đốn, lao động mất việc và không có thu nhập.

-           Các khoản nợ trước đây không trả được khiến hộ nghề và các doanh nghiệp rơi vào tình trạng nợ nần.

-           Khi thị trường truyền thống có nguy cơ bị mất, không có việc làm nên lao động lành nghề cũng tìm cách xa rời doanh nghiệp, đe dọa đến khả năng phục hồi sau này của các doanh nghiệp và làng nghề...

Một số người lạc quan hơn thì cho rằng, làng nghề là thể chế có khả năng thích ứng tốt hơn với các biến động kinh tế do cơ cấu sản xuất luôn đa dạng và có tính đệm rất cao. Các lao động ở làng nghề đa phần là lao động kiêm, nếu mất hoạt động phi nông nghiệp sẽ chuyển sang làm nghề nông hoặc các hoạt động khác vì thế sẽ giảm thiểu đáng kể những tác động xấu của khủng hoảng đến làng nghề.

Các chính sách hỗ trợ làng nghề của Chính Phủ

Cũng giống như cả nền kinh tế, Chính phủ muốn chia sẻ và hỗ trợ để các làng nghề mà cụ thể là các doanh nghiệp, hộ nghề và các lao động ở đó vượt qua những khó khăn trong khủng hoảng kinh tế. Chỉ trong một thời gian ngắn, các chính sách sau đây đã được triển khai:

1.         Đó là việc hỗ trợ lãi suất 4% cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh (tức là vay vốn lưu động) - được gọi là gói kích cầu thứ nhất (Quyết định 131/2009/QĐ-TTg, tháng 1 năm 2009) của Thủ tướng Chính Phủ;

2.         Tiếp theo là gói kích cầu thứ hai: cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung dài hạn của ngân hàng để đầu tư mới sản xuất kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng trong thời gian tối đa là 24 tháng.

3.         Chính phủ cũng đã có quyết định về việc hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn, nhiều loại được hỗ trợ 100% lãi suất vay; thời hạn từ 12 đến 24 tháng. Quy định mới này đã tạo điều kiện cho DN thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, tranh thủ thời cơ mua sắm thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh khi kinh tế hồi phục (Thông tư liên tịch số 60/2009/TT-TCBNN).

4.         Việc bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa (trong đó có DN làng nghề) vay vốn của các ngân hàng thương mại đã được giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện, và VDB đang tiếp tục ký thỏa thuận với các ngân hàng thương mại để mở rộng việc tiếp nhận và bảo lãnh cho DN vay vốn. Quy chế bảo lãnh cho DN vay vốn đã được sửa đổi, bổ sung về đối tượng, phạm vi, điều kiện và thời hạn bảo lãnh vay, có thêm nhiều thuận lợi cho DN.

Mục tiêu nghiên cứu

Từ bối cảnh đó cho thấy cần phải thực hiện một nghiên cứu đánh giá về thực trạng phát triển của làng nghề trong khủng hoảng kinh tế, những tác động của chính sách từ phía Nhà nước đối với làng nghề trong hoàn cảnh này. Các hướng đánh giá chính của nghiên cứu là:

Đánh giá được thực trạng tình hình khủng hoảng ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã  hội làng nghề ở đồng bằng sông Hồng, quan trọng nhất là:

Ảnh hưởng đến thu nhập và công ăn việc làm của người lao động ở làng nghề

Ảnh hưởng đến tình hình sản xuất: thị trường, hiệu quả sản xuất, tính thanh khoản.

Đánh giá được kết quả và những tác động của các chính sách hỗ trợ làng nghề (kể các các chính sách của TW và các địa phương) trong thời gian vừa qua.

Qua sự đánh giá đó, nghiên cứu xem xét đến quá trình “tái cấu trúc”, quá trình thích nghi và biến đổi của làng nghề ở Đồng bằng Sông Hồng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển làng nghề bền vững.

Đồng thời, nghiên cứu cũng đưa ra những đề xuất về các giải pháp chính sách tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục khó khăn và tái cấu trúc doanh nghiệp để tiếp tục phát triển sau khủng hoảng.

AGROINFO (giới thiệu)

NỘI DUNG KHÁC

“Nghiên cứu ảnh hưởng của việc thực hiện cam kết WTO đến một số vấn đề chủ yếu về kinh tế-xã hội và môi trường nông thôn”.

25-1-2010

AGROINFO - Đây là một đề tài nghiên cứu quan trọng được nhóm nghiên cứu của AGROINFO thực hiện, đã được bảo vệ thành công…

Trung Quốc - thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam

30-10-2009

Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, Trung Quốc vẫn là một nền kinh tế có mức độ tăng trưởng dẫn đầu thế giới. Xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc có sức thu hút lớn đối với doanh nghiệp nhiều nước.

Xuất khẩu than cốc của Trung Quốc sẽ giảm trong quý 3/09

30-10-2009

Một nhà phân tích thuộc hãng cung cấp thông tin công nghiệp Umetal.net cho biết xuất khẩu than cốc của Trung Quốc chắc chắn sẽ vẫn thấp trong quý 3 năm nay.

Sản lượng ngô của Trung Quốc năm nay sẽ tăng

23-10-2009

Theo Bộ trưởng Nông nghiệp Trung Quốc, Sun Zhengcai, nước sản xuất ngô lớn thứ 2 thế giới này có thể tăng sản lượng ngô trong năm nay nhờ diện tích trồng tăng, bù lại cho thiệt hại do hạn hán.

Trung Quốc công bố hạn ngạch nhập khẩu đường và len năm 2010

16-10-2009

Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, nước này công bố hạn ngạch nhập khẩu với mức thuế thấp của 1.945 triệu tấn đường và 287.000 tấn len cho năm 2010, con số này không đổi so với năm 2009 như một phần cam kết của Trung Quốc trong việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

Trung Quốc xem xét cấm nhập thịt gà Mỹ

9-10-2009

Theo tin từ Hiệp hội Chăn nuôi Trung Quốc, Chính phủ nước này đang xem xét có nên đưa ra các biện pháp hạn chế nhập khẩu thịt gà từ Mỹ hay không.

Tỏi Việt Nam lép vế tỏi Trung Quốc ngay trên sân nhà

2-10-2009

Trong khi thị trường tỏi trong nước còn đang loay hoay tìm chỗ đứng thì tỏi Trung Quốc nhập khẩu đã nhanh chân thâu tóm thị trường nội địa với số lượng lớn. Giống tỏi Việt Nam dù chắc củ và chứa nhiều tinh dầu nhưng khó cạnh tranh nổi với tỏi Trung Quốc.

Phát hiện hơn 4 tấn thực phẩm Trung Quốc giả nhãn hiệu VN

17-12-2009

Sau một thời gian theo dõi, hôm qua Chi cục Quản lý thị trường TP.HCM (QLTT) đã bất ngờ kiểm tra, phát hiện tại Công ty TNHH Kim Lan (33, 45 - 47 lô R đường Phan Cát Tựu, Q.Bình Tân) hơn 1 tấn thực phẩm khô các loại như táo, me, xí muội, bánh kẹo, xuất xứ Trung Quốc đang được các công nhân đóng gói vào bao bì ghi nhãn hiệu của Công ty Kim Lan.

Thông tư về công tác tăng cường quản lý an toàn chất lượng lương thực

16-12-2009

Để thực hiện quán triệt “Luật an toàn nông sản”, tăng cường việc quản lý vệ sinh lương thực và chất lượng trong hoạt động kết nối thu mua, dự trữ, đề phòng không phù hợp với tiêu chuẩn an toàn chất lượng, đảm bảo người dân yên tâm khi sử dụng lương thực, nay ban hành thông tư về việc làm tốt hơn nữa công tác quản lý an toàn chất lượng lương thực. Nội dung chủ yếu bao gồm các vấn đề sau:

Nhập khẩu đậu tương Trung Quốc sẽ tăng vào cuối năm

14-12-2009

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, nhập khẩu dầu ăn vào nước này trong nửa đầu năm 2009 đạt 3,44 triệu tấn dầu ăn , giảm 9,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu riêng trong tháng 6 đạt 770.000 tấn.

Trung Quốc - thị trường trọng điểm của Việt Nam

25-8-2009

Xác định Trung Quốc vẫn tiếp tục là một thị trường trọng điểm và là đối tác thương mại hàng đầu, Bộ Công Thương dự kiến năm 2009, kim ngạch mậu dịch giữa hai nước đạt khoảng 21,5 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm 2008. Năm 2010, dự kiến có khả năng đạt 25 tỷ USD, hoàn thành mục tiêu mà lãnh đạo cấp cao hai nước đề ra.

Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc cần linh hoạt

14-12-2009

Theo Phó vụ trưởng Vụ Thị trường Châu Á – Thái Bình Dương, Bộ Công Thương cho biết, Trung Quốc khó đưa hàng vào các thị trường lớn do suy giảm kinh tế, nên tất yếu sẽ chuyển sang kêu gọi người dân sử dụng hàng nội địa, nên sẽ hạn chế hàng nhập khẩu, nhất là từ các nước có chung đường biên giới như Việt Nam.