TIN TỨC-SỰ KIỆN

Người mẹ của vùng trà Thương Nam, Thiểm Tây, Trung Quốc

Ngày đăng: 22 | 04 | 2008

Trong lịch sử trồng chè của Trung Quốc, mọi người luôn cho rằng chè chỉ có thể trồng trọt ở miền nam. Nhưng trải qua mấy chục năm dốc lòng nghiên cứu, bà Trương Thục Trân kỹ sư nông nghiệp cao cấp huyện Thương Nam với thực tiễn chè miền nam di chuyển lên miền bắc, di chuyển thành công cơ sở trồng chè lên phía bắc hơn 300 km, khiến nhân dân khu vực miền núi Thương Nam tỉnh Thiểm Tây nằm ở miền bắc Trung Quốc nhờ trồng chè đi lên khá giả, đồng thời thay đổi lịch sử hơn 2000 năm không thể trồng chè ở miền bắc.

Bài ca trà du dương này có xuất xứ ở nơi nào Trung Quốc ? Chưa biết chừng có người cho rằng đương nhiên là có xuất xứ từ miền Giang Nam sản xuất nhiều chè. Thực ra, bài ca trà này không phải là xuất xứ từ vườn chè miền nam, mà bắt nguồn từ Cơ sở trồng trà huyện Thương Nam, tỉnh Thiểm Tây miền bắc Trung Quốc.

Trong lịch sử trồng chè của Trung Quốc, mọi người luôn cho rằng chè chỉ có thể trồng trọt ở miền nam. Nhưng trải qua mấy chục năm dốc lòng nghiên cứu, bà Trương Thục Trân kỹ sư nông nghiệp cao cấp huyện Thương Nam với thực tiễn chè miền nam di chuyển lên miền bắc, di chuyển thành công cơ sở trồng chè lên phía bắc hơn 300 km, khiến nhân dân khu vực miền núi Thương Nam tỉnh Thiểm Tây nằm ở miền bắc Trung Quốc nhờ trồng chè đi lên khá giả, đồng thời thay đổi lịch sử hơn 2000 năm không thể trồng chè ở miền bắc.

Bà Trương Thục Trân có dáng người tầm thước, đầy đặn, tuy đã gần 70 tuổi, nhưng vẫn thấy bà bận tíu tít giữa các vườn chè ở Thương Nam. Nông dân trồng chè địa phương đều thân mật gọi bà là "Mẹ chè", Khi chúng tôi gặp bà thì bà đang tỉa cành chè trên núi.

Nhắc tới câu chuyện về chè của Thương Nam, thì phải nói sự từng trải của cá nhân bà Trương Thục Trân, bởi vì bà quả thực là nhân vật chủ chốt về ươm trồng cây trà Thương Nam. Bà Trân học chuyên ngành Lâm nghiệp, sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1961 thì bà tới huyện Thương Nam làm cán bộ lâm nghiệp. Đời sống nhân dân của huyện Thương Nam lúc bấy giờ rất nghèo khổ. Bà Trương Thục Trân nói, bà luôn suy nghĩ là làm thế nào kết hợp giữa chuyên ngành mà mình học với sản xuất và đời sống của nhân dân.

Làm thế nào để cho nhân dân khu vực miền núi đi lên khá giả là trách nhiệm của cán bộ Lâm nghiệp chúng tôi. Tôi đã từng trồng cây Sơn Sống và cây Trẩu, nhưng vẫn cảm thấy hiệu quả kinh tế không khá. Phải chăng nên đưa vào những giống cây khác nữa.

Sau khi bỏ trồng cây Sơn Sống và cây Trẩu, bà Trương Thục Trân vẫn không nản lòng. Bà bắt đầu chuyên tâm nghiên cứu thảm thực vật của khu vực Thương Nam, mong tìm được loại cây trồng kinh tế để cho bà con nông dân thoát khỏi cảnh nghèo khó. Thương Nam nằm trong khu vực miền núi Tần Lĩnh là nơi giao tiếp của khí hậu hai miền Bắc – Nam Trung Quốc, thảm thực vật hết sức phong phú, nhưng đường núi cũng rất cheo leo nguy hiểm. Bà Trân không ngại khó khăn vất vả, hầu như đặt chân tới khắp nơi Thương Nam. Bà Trân phát hiện Thương Nam tuy là khu vực miền núi nghèo khó, nhưng nhân dân rất thích uống chè.Cách nói "Thà không muối ba ngày, chứ không chịu một ngày không uống chè" là hình ảnh sống động về tập quán sinh hoạt này của người địa phương.

Năm 1962, khi đi kiểm tra lâm nghiệp ở xã Thủy Câu cách huyện lỵ hơn 50 km, bà Trân bất ngờ phát hiện trên một mảnh đất có 9 cây chè. Sự phát hiện này đối với bà Trân mà nói như là phát hiện đại lục mới vậy. Bà phấn khởi nhận định, khu vực Thương Nam đã mọc cây chè, thì nhất định có thể phát triển ngành trồng chè diện tích rộng, người Thương Nam sẽ được uống chè của mình, mà còn có thể tăng thêm thu nhập bằng nghề trồng chè. Từ đó, bà Trương Thục Trân bắt đầu sự nghiệp trồng chè của mình.

Nhưng đây không phải là một việc dễ dàng. Trong giai đoạn bắt đầu trồng chè, bà Trân đã gặp nhiều trắc trở. Bà Trân nói, khi mới bắt đầu trồng cây chè, mấy lần du nhập giống đều thất bại. Sau đó bà phát hiện do những nhân tố môi trường nhạy cảm như khí hậu, thổ nhưỡng.v.v..., do đó không thể trồng chè một cách sơ sài như các loại cây trồng khác, nhất định phải chăm bón tỉ mỉ. Mãi tới năm 1970, bà Trương Thục Trân mới thu hoạch được nón chè đầu tiên trong vườn ươm trồng chè.

Đến năm 1970 hái được 1,9 kg chè. Sau đó di dời dần dần cây chè trong vườn ươm lên trồng trên núi, bởi vì tương lai phát triển chè cuối cùng là phải phát triển trên núi, không thể phát triển trong vườn ươm. Trên núi trồng vườn chè rộng 0,13 hec-ta và đã thành công.

Vấn đề du nhập giống chè và ươm trồng đã giải quyết rồi, thì vấn đề tiền vốn lại nổi cộm lên. Bà con nông dân lúc bấy giờ rất nghèo, để cho họ tự vỡ đất vườn trồng chè là việc không thể thực hiện được.Bà Trân nghĩ tới chính quyền, mong thông qua sự ủng hộ của chính quyền huyện Thương Nam để ra sức phát triển trồng chè. Năm 1972, bà Trân đi tham quan vườn chè ở tỉnh Hồ Nam miền trung Trung Quốc, nhìn thấy nông dân ở đó nhờ trồng chè đi lên khá giả, trở về bà đã nêu kiến nghị phát triển trồng trọt vườn chè với lãnh đạo huyện Thương Nam. Bà Trân nói :

Lãnh đạo huyện Thương Nam hết sức ủng hộ, sau khi khảo sát nghiên cứu đã vỡ đất mở hàng loạt vườn chè. Năm 1972, lúc đông nhất có tới 20 nghìn người lên núi vỡ đất trồng chè. Do đó lãnh đạo coi trọng sự phát triển trồng chè Thương Nam chúng tôi là vấn đề then chốt.

Năm 1984, trước sự ủng hộ của chính quyền huyện, bà Trân đã liên kết 37 Nông trường chè của cả huyện, thành lập Công ty liên doanh chè khô huyện Thương Nam bao gồm sản xuất, gia công và kinh doanh tập trung thành một khối thống nhất, bản thân bà giữ chức phó tổng giám đốc Công ty, lần đầu tiên hình thành dây chuyền công nghiệp "Thị trường – Công ty – Cơ sở sản xuất – Gia đình nông dân" trong xây dựng doanh nghiệp chè của Thương Nam. Công ty thống nhất ủng hộ cung cấp kỹ thuật cho nông dân, phục vụ nông dân trồng chè một cách toàn diện, bắc chiếc cầu giữa thị trường và Gia đình nông dân trồng chè, giải quyết những lo toan của nông dân trồng chè.

Trước sự dẫn dắt của Công ty, đến năm 2006, diện tích vườn chè của toàn huyện đã đạt tới hơn 4600 hec-ta, sản lượng vượt hơn 500 nghìn kg/năm, giá trị tổng sản lượng đạt 23 triệu đồng nhân dân tệ, chè khô đã trở thành một trong ba ngành trụ cột lớn của toàn huyện.

Do bà Trương Thục Trân đã góp phần cống hiến xuất sắc cho ngành chè Thương Nam, bà từng được bầu là Người đi đầu xóa đói giảm nghèo toàn quốc và Anh hùng lao động, còn được chính phủ Trung Quốc tặng thưởng huy chương lao động "Mùng 1 tháng 5" --- Vinh dự cao quí nhất cho người lao động. Nhưng bà Trương Thục Trân luôn tự nhủ không nên lấy đó làm mục tiêu phấn đấu. Bà Trân nói :

Đảng và nhân dân bồi dưỡng cho tôi từ một cô bé tới tốt nghiệp đại học, tôi nên báo đáp xã hội. Sự khó khăn và nghèo nàn của nhân dân vùng miền núi đã thôi thúc tôi nghĩ biện pháp để cho nông dân đi lên khá giả. Tôi cho rằng chè là một dự án tốt để nông dân vùng miền núi đi lên khá giả, tôi đã tích cực phổ biến.

Hiện nay, Công ty liên doanh chè khô huyện Thương Nam trước sự dẫn dắt của bà Trương Thục Trân, đang thực hiện mục tiêu mở vườn chè tổng hợp trên núi, trên ruộng, trên rừng và bên đường. Thông qua thực nghiệm khoa học trong ba năm gần đây, huyện Thương Nam lại mở rộng thêm 2000 hec-ta vườn chè, không những trị lý được 40 km2 đất đai bị xói mòn, mà còn làm cho những vườn chè này trở thành vườn mẫu trả lại đất canh tác cho rừng cây và Vườn quản lý khoa học kỹ thuật chè vô độc hại, lại một lần nữa để cho nông dân được lợi.

Khi nhắc tới sự phát triển của ngành chè khô huyện Thương Nam trong nay mai, bà Trương Thục Trân nói :

Chúng ta nên tiến thêm một bước nâng cao chất lượng chè. Một mặt tăng thêm thu nhập cho quần chúng, mặt khác có thể thỏa mãn nhu cầu của đông đảo người tiêu dùng.

Bà Trân cho chúng tôi biết, bà đang suy xét du nhập càng nhiều giống chè. Bà mong huyện Thương Nam trong tương lai sẽ trở thành cơ sở sản xuất chè quan trọng của miền bắc Trung Quốc.

NỘI DUNG KHÁC

Phân tích bình đẳng và kinh nghiệm quốc tế

24-4-2008

Tiếp theo báo cáo Cập nhật Nghèo năm 2006, trong năm 2008, Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và tổ chức trong nước tiếp tục tiến hành đánh giá Nghèo 2008 ở quy mô sâu rộng hơn. Bất bình đẳng là một trong bốn vấn đề được lựa chọn nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố tạo nên bất bình đẳng, đặc điểm các nhóm giàu/ nghèo nhất.

Một số suy nghĩ về vấn đề “tam nông” ở Việt Nam

22-4-2008

Về vấn đề “tam nông”, theo tôi nghĩ không nên theo thứ tự nông nghiệp, nông thôn và nông dân, mà chỉ cần “nhất nông” là nông dân mà thôi. Nông thôn là môi trường sống của nông dân, và nông nghiệp là sinh kế, đồng thời là đóng góp của nông dân vào nền kinh tế cả nước. Do đó, trọng tâm phát triển phải là con người, không phải là môi trường sống hay sinh kế. Nên đổi lại thứ tự là nông dân, nông thôn và nông nghiệp.

Bản tin Tuần thị trường thực phẩm Việt Nam - Foodstuff MarketWeekly

21-4-2008

Bắt đầu từ tháng 3 năm 2008, Trung tâm Thông tin Phát triển NNNT (AGROINFO) đã liên tục xuất bản Bản tin tuần thị trường thực phẩm Việt Nam (Foodstuff Market Weekly).

Bảo hiểm nông nghiệp: Vài nét về một mô hình mới

21-4-2008

Bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) đang là vấn đề nan giải trong quản lý nông nghiệp hiệu quả ở nước ta. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận định, trước bối cảnh lạm phát ngày càng gia tăng như hiện nay, cách kiềm chế tốt nhất là ổn định nông nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, lấy nông nghiệp làm bản lề trong chính sách tiếp tục tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều đó, vai trò của BHNN nặng nề và cấp thiết hơn bao giờ hết.

Trao đổi giữa FINANCIAL TIMES và AGROINFO/IPSARD về lúa gạo Việt Nam

21-4-2008

Trong gần 2 tiếng đồng hồ, chủ đề của cuộc trao đổi xoay quanh các việc giá gạo thế giới tăng mạnh và khả năng thu lợi của nông dân trồng lúa Việt Nam, giá gạo tăng và tác động của nó đến người tiêu dùng trong nước, … Sau cuộc gặp này, phóng viên của Financial Times sẽ tiếp tục có chuyến thăm và trao đổi với nông dân, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo ở Đồng bằng Sông Cửu Long vào thời điểm cuối tháng 5- đầu tháng 6 tới.

EIA và Telapak gán tội ngành gỗ Việt Nam

19-4-2008

Xài gỗ lậu mới phát triển nhanh! Đó là lời cáo buộc nêu ra trong bản báo cáo của cơ quan điều tra môi trường phi chính phủ (EIA) và đối tác Telapak (Indonesia) đã công bố vào cuối tháng 3 vừa qua tại Mỹ.

Trung Quốc tích cực ứng đối biến đổi khí hậu

19-4-2008

Hội nghị thường niên năm 2008 Diễn đàn châu Á Bác Ngao đã bế mạc vào ngày 13 tháng này. Các phóng viên trong và ngoài nước từng nhiều lần tham gia Diễn đàn cảm nhận rõ rệt chi tiết "xanh" tại hội nghị thường niên năm nay.

Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp 2007 và triển vọng năm 2008

18-4-2008

Lần đầu tiên ở Việt Nam, báo cáo thường niên ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn do một đơn vị phân tích độc lập là Trung tâm Thông tin PTNNNT (AGROINFO) - Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT (IPSARD) thực hiện. Báo cáo thường niên NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 2007 VÀ TRIỂN VỌNG 2008 với những phân tích toàn diện và cập nhật đưa đến cho độc giả những hiểu biết sâu sắc về những chủ đề quan trọng của phát triển nông nghiệp, nông thôn năm Việt Nam 2007 và triển vọng cho năm 2008.

IPSARD đẩy mạnh tiêu chuẩn hóa cán bộ và tổ chức

18-4-2008

AGROINFO - Chiều ngày 17/4/2008, Viện trưởng-TS. Đặng Kim Sơn đã có buổi làm việc với toàn thể cán bộ, nhân viên của Trung tâm Thông tin (AGROINFO) về việc tiêu chuẩn hóa cán bộ và tổ chức.

Giá ngô trên thị trường Trung Quốc có nhiều biến động

18-4-2008

Năm nay, khối lượng ngô xuất khẩu của Trung Quốc giảm, các thị trường chủ yếu xuất hiện nhiều thay đổi. Theo thống kê của Hải quan, tháng 1 và 2/ 2008 khối lượng ngô xuất khẩu là 4.5 vạn tấn, giảm 97.5% so với cùng kỳ; nhập khẩu rất ít

Cần sớm giải quyết vấn đề lãng phí tài nguyên đất ở các Nông, Lâm trường

17-4-2008

Đó là một trong nhiều ý kiến chỉ đạo quyết liệt của Bộ trưởng Cao Đức Phát tại hội nghị Triển khai công tác kiểm tra sắp xếp, đổi mới và quản lý sử dụng đất nông, lâm trường quốc doanh tổ chức ngày 16/4. Dự và chỉ đạo hội nghị còn có Thứ trưởng Diệp Kỉnh Tần, Trưởng ban Ban chỉ đạo SXĐMNLTQDTW và đại diện 52 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có NLTQD.

Dự báo giá phân kali Trung Quốc tiếp tục tăng

16-4-2008

Cách đây vài năm khoảng 50% khối lượng phân kali dựa vào nhập khẩu. Theo dự đoán trong khoảng thời gian ngắn, tình trạng nhập khẩu vẫn không đạt được các bước chuyển biến mới.