TIN TỨC-SỰ KIỆN

Thấy gì từ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam?

Ngày đăng: 31 | 03 | 2008

Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng yếu tố để có kế hoạch khai thác, mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm ẩn gia tăng lạm phát.

Tăng trưởng do các yếu tố đầu vào

Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%.

Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.

Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư.

Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.

Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.

Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt.

Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.

Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay.

Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.

Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao

TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.

Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.

Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau:

Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995).

Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp.

Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/Vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng.

Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Năm 2007 mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người.

Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế cũng mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD.

Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5 nghìn USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.

Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm tăng lạm phát.

Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.

Các yếu tố đầu ra

Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu ra có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của tiêu dùng cuối cùng, của tích luỹ tài sản, của xuất khẩu ròng (xuất khẩu ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu).

Có một số nhận xét được rút ra từ đóng góp của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh tế:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng. Điều đó được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%); mức tiêu dùng bình quân đầu người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và tốc độ tăng thường khá cao (mấy năm liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc độ tăng của GDP).

Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường ngày một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm (đã loại trừ yếu tố giá) mấy năm nay liên tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng 15,2%, năm 2004 tăng 10,8%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 yăng 12,5%, năm 2007 tăng 11,4%).

Khi tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh và trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế thì một mặt nó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mặt khác tạo áp lực tăng cung tiền tệ, tạo áp lực lạm phát.

Cùng với tăng trưởng tiêu dùng chung thì tiêu dùng của một bộ phận dân cư đã tăng rất cao về quy mô, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Cùng với xu hướng này cũng đã xuất hiện tâm lý ưa chuộng hàng hiệu, hàng ngoại, thậm chí mua bán với bất kỳ giá nào.

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế do tăng trưởng tích luỹ tài sản chiếm tỷ trọng khá cao. Đây cũng là một tín hiệu tốt thể hiện tâm lý tiết kiệm để dành cho tích luỹ của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.

Tuy nhiên, bên cạnh việc trực tiếp đầu tư tăng trưởng, có một phần không nhỏ đã được để dành dưới dạng cất trữ hoặc chạy lòng vòng qua các kênh gây ra những cơn sốt nóng hoặc lạnh ở các kênh này mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh. Hiện có hàng trăm tỷ đồng vốn đầu tư đang được chôn vào bất động sản, vào vàng.

Thứ ba, tăng trưởng xuất khẩu ròng hiện đang mang dấu âm do nhập siêu gia tăng mạnh cả về quy mô, cả về tỷ lệ so với xuất khẩu. Nhập siêu cả về hàng hoá, cả về dịch vụ. Riêng về hàng hoá, năm 2007 lớn gấp 2,5 lần năm 2006, năm nay mới qua 3 tháng mà đã gấp 3,8 lần cùng kỳ, khả năng cả năm có thể gấp rưỡi hoặc cao hơn so với năm trước.

(Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam)

NỘI DUNG KHÁC

Một văn bản, 90% số doanh nghiệp bị "xoá sổ"?

31-3-2008

Cả trăm doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuốc thú y trên cả nước đang đối mặt với nguy cơ bị "xoá sổ" vào cuối năm 2008 vì chưa có chứng chỉ GMP theo quy định của Cục Thú y đồng nghĩa với việc hàng ngàn lao động mất việc trong bối cảnh giá cả tăng vọt hiện nay...

Triển vọng thị trường, chất lượng và cơ cấu ngành hàng cà phê 2008

31-3-2008

Ngày 26-3, tại Hà Nội, hội thảo triển vọng thị trường, chất lượng và cơ cấu ngành hàng cà phê 2008 do Viện chính sách và Chiến lược PTNNNT, Bộ NN&PTNT phối hợp với Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp tổ chức.

Công bố báo cáo "Cập nhật kinh tế Đông Á Thái Bình Dương"

1-4-2008

Do Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam tổ chức

Đánh giá tác động WTO tới Việt Nam

2-4-2008

Do dự án hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP) tổ chức.

Xây dựng Khu vực kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây thu hút sự quan tâm của mọi người

28-3-2008

Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khoá 11 vừa bế mạc, những vấn đề như Trung Quốc hết sức coi trọng như phát triển khu vực duyên hải của Quảng Tây, xác định rõ Khu vực kinh tế Vịnh Bắc Bộ là khu vực trọng điểm trong Chiến lược phát triển miền tây cũng như mở cửa và hợp tác với ASEAN v v...đã thu hút sự quan tâm của các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước

Các quy chế điều hành xuất khẩu của Trung Quôc

26-3-2008

B. Hàng cấm xuất khẩu Các hàng kê theo danh mục hàng cấm nhập khẩu. Các bản thảo, tài liệu, phim ảnh, băng đĩa có liên quan đến bí mật quốc gia. Cổ vật có giá trị. Động vật quý, hoang dã, thực vật (bao gồm cả các tiêu bản) cùng các giống cây, tài liệu có liên quan.

IPSARD tiếp đoàn công tác của Văn phòng Chính phủ Lào

26-3-2008

AGROINFO - Chiều ngày 24 tháng 3 năm 2008, tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD), Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) đã có buổi làm việc với đoàn công tác do Bộ trưởng – Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Lào dẫn đầu.

Đưa các nhà sản xuất nhỏ vào thị trường nông sản Việt Nam

28-3-2008

AGROINFO – Một đặc điểm của hệ thống nông nghiệp Việt Nam là sản xuất quy mô nhỏ. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO, các nhà sản xuất nhỏ phải đối mặt với nhiều thách thức khi họ tham gia vào chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu. Nhằm gắn kết các nhà sản xuất nhỏ vào thị trường nông sản Việt Nam, Trung tâm Tư vấn Chính sách nông nghiệp (CAP) phối hợp với chương trình tái cấu trúc thị trường (Regoverning Markets) tổ chức chuỗi hội thảo “Nâng cao khả năng tham gia của các nhà sản xuất nhỏ vào thị trường nông sản Việt Nam” trong 3 ngày 19 – 21 tháng 3 năm 2008.

Miền Bắc, chống "giặc" hạn, cần sức toàn dân

26-3-2008

Đã thành quy luật, cứ đến vụ đông xuân là miền Bắc lại đứng trước nguy cơ hạn hán, tình trạng này ngày càng trở nên trầm trọng hơn do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu. Mặc dù đã có sự chỉ đạo nhưng nhiều địa phương đang tỏ ra lúng túng với những giải pháp "tạm thời". Để tránh bị động, cần huy động toàn dân trong việc chống hạn và áp dụng những chiến lược lâu dài...

Hai năm thực hiện Nghị định 115: Cốt yếu là thay đổi nhận thức

26-3-2008

Nghị định 115 đã được ví như”khoán 10” trong khoa học hay là “bước đột phá” trong công tác tổ chức hoạt động của các đơn vị khoa học công nghệ. Theo phát biểu của thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân tại Hội nghị sơ kết tình hình thực hiện nghị định này, mục tiêu của nghị định là “trao cho nhà khoa học quyền tự chủ cao nhất thể hiện bằng quyền tự chủ về tổ chức, nhân sự và tài chính”. Nhưng trên thực tế, vẫn còn một số đơn vị "ngại" tự chủ, mà lý do không hẳn là họ không muốn xa bầu sữa bao cấp.

Báo cáo công tác cải cách hành chính của Bộ NN&PTNT

25-3-2008

Báo cáo công tác cải cách hành chính tháng 3, quý I/ 2008 và nhiệm vụ trọng tâm tháng 4, quý II / 2008.

Tham tán Kinh tế-CH Ba Lan đánh giá cao việc phát hành hai báo cáo thường niên của Trung tâm Thông tin PTNT

25-3-2008

(AGROINFO) - Chiều ngày 21/03/2008, Ông Wojciech Gerwel, Tham tán Kinh tế - Đại sứ quán Cộng hoà Ba Lan đã tới trao đổi và làm việc với Trung tâm Thông tin PTNT - Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT về hai ấn phẩm rất có giá trị “Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt nam 2007, triển vọng 2008” và “Báo cáo thường niên ngành hàng gạo Việt Nam 2007, triển vọng 2008” do Trung tâm phát triển trong năm qua.